Vạn trái tim… "thắp lửa"-Bài 2: Những nông dân quả cảm
(QBĐT) - Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại, người dân Quảng Bình “Hai. giỏi”, không kể gái hay trai, già hay trẻ, họ bám đồng, bám biển vừa sản xuất vừa chiến đấu như những người lính thực sự ngay trên chính mảnh đất quê hương.
Gái thay trai, ra khơi vào lộng
Với ngư dân Quang Phú (TP. Đồng Hới), từ xa xưa chỉ có nam giới, thanh niên mới đi biển, còn phụ nữ chỉ ở nhà. Quan niệm đó có thể là một tín điều kiêng kỵ, cũng có thể do biển cả mênh mông, chỉ sức trai tráng mới chịu đựng được sóng to, gió lớn. Ấy vậy, mà có những người con gái nơi đây dám vượt qua “lời nguyền” ấy cả khi mưa bom, bão đạn.
Trong một lần trò chuyện ông Nguyễn Xuân Diều, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Quang Phú (1966-1978), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Quang Phú (1987-1993) cho biết, những năm đế quốc Mỹ “leo thang” mở rộng chiến tranh, đưa máy bay, tàu chiến ném bom phá hoại miền Bắc, Quảng Bình là đầu cầu tuyến lửa, hậu phương trực tiếp của chiến trường lớn miền Nam. Những năm đó, để chi viện cho chiến trường, nhiều thanh niên là xã viên HTX Quang Phú phải cầm súng lên đường vào Nam chiến đấu, khiến nguồn nhân lực đi biển bị thiếu hụt. Vì vậy, 12 thiếu nữ trẻ lúc ấy xung phong đi biển thay nam giới.
![]() |
Trong số những thiếu nữ ấy có cô gái trẻ Phạm Thị Ngạnh. Bà cũng chính là con gái đầu của người mẹ Anh hùng Lao động Phạm Thị Nghèng danh tiếng. Bà Ngạnh chia sẻ, bà vào HTX từ năm 1969. Lúc đó, cả nước dốc sức vì miền Nam, vì độc lập, hòa bình và thống nhất đất nước, chiến tranh, bom đạn còn chưa sợ, sợ gì đi biển.
Chuyến biển đầu tiên khi bà mới vừa tròn 17 tuổi. Tiếng là người vùng biển, nhưng lúc bước lên thuyền, bà mới thú nhận rằng mình chưa biết bơi. Trên thuyền lúc đó có 6 người, trong đó có 2 nữ. Con thuyền vừa mới ngược sóng ra biển, bà đã lâng lâng, lảo đảo và nôn ói vì say sóng. Một lúc sau, cô thiếu nữ chỉ còn nằm bệt trên sàn thuyền, không nhúc nhích. Những chuyến biển sau đó, bà cũng bị những cơn say sóng hạ gục. Để vượt qua những cơn say sóng, mỗi lần bước lên thuyền, bao giờ bà cũng chỉ nghĩ, đi nhiều rồi cũng quen... Cứ như vậy, cuối cùng ý chí quyết tâm, sự gan góc của mình, cô thiếu nữ cũng dần quen với sóng biển và bơi thành thục.
“Tập bơi không chỉ để được đi biển, mà để mỗi khi có bom, phải nhảy xuống biển để tránh. Thời điểm đó, bom đạn của kẻ thù ngoài biển bắn vào như trút, vừa không để cho ngư dân đánh bắt hải sản, vừa để ngăn chặn tàu thuyền vận chuyển lương thực, vũ khí của ta đưa vào Nam. Vì vậy, việc tàu thuyền hoạt động đánh bắt cá bình thường trên biển lúc đó còn có tác dụng ngụy trang cho những chuyến thuyền vận chuyển lương thực, vũ khí vào Nam, tránh sự phát hiện của địch”, bà Ngạnh cho hay.
Ngư dân cải trang thành… ngư dân
Lịch sử ghi lại rằng, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch tập trung lực lượng dồn dập phản kích quyết liệt chiến trường Trị-Thiên, bộ đội thiếu gạo, thiếu vũ khí chiến đấu. Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 yêu cầu Quảng Bình chi viện cho chiến trường. Tỉnh ủy quyết định giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí cho Đảng bộ, nhân dân xã Cảnh Dương (Quảng Trạch) đảm nhiệm. Với tinh thần “tất cả vì miền Nam thân yêu, vì Trị-Thiên ruột thịt”, Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã Cảnh Dương quyết định chọn HTX Cảnh Dương tổ chức lực lượng để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Đội vận tải mang mật danh VT5.
Trong chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên, ông Nguyễn Văn Biểu (SN 1950), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Cảnh Dương (giai đoạn 1979-1981), nguyên Đội trưởng đội ngư nghiệp HTX Cảnh Dương cũng là một thuyền viên. Ông Biểu nhớ lại, thời điểm đó, xã có hơn 100 người, đủ các lứa tuổi (từ 16-60 tuổi) xung phong tham gia.
Sau khi cân nhắc, địa phương chỉ chọn 72 người, do đồng chí Đậu Thanh Long, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 45 làm Đoàn trưởng. Đội vận tải gồm 20 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Ngọc Liên, Bí thư Chi bộ làm phó đoàn, Chi đoàn Thanh niên do đồng chí Nguyễn Văn Nhượng làm Bí thư. Đội tổ chức thành 12 thuyền (trọng tải từ 3-5 tấn, 6 thuyền viên/thuyền, được trang bị súng ống, vũ khí) và cải trang giống thuyền đánh cá của tỉnh Quảng Trị để thực hiện nhiệm vụ.
![]() |
Ngày 26/2/1968, đoàn thuyền lặng lẽ xuất phát từ Cảnh Dương vào bờ biển Quang Phú tiếp nhận vũ khí và các đồ dùng cần thiết. Vũ khí được bí mật xếp vào khoang đáy của thuyền và dùng lưới đánh cá ngụy trang cẩn thận. Một đêm đầu tháng 3/1968, đoàn thuyền xuất phát vào Nam. Thế nhưng, khi ra biển, gió mùa Đông Bắc thổi mạnh, một số thuyền viên tuổi cao, sức yếu, không chịu được phải ở lại, sau đó có 2 thuyền phải quay về. 10 thuyền còn lại bí mật cắt sóng lên đường, hướng vào chiến trường.
Sau một đêm vượt sóng gió, mưa rét, đoàn đã đưa thuyền cập bến, ẩn nấp và ngụy trang ở một địa điểm bí mật ở Mũi Si (thuộc huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị). Địch phát hiện, chúng huy động tàu chiến và máy bay bắn phá vào nơi thuyền trú đậu. Một chiếc bị chìm, một chiếc bị hỏng. Thuyền viên của các thuyền bị hỏng được lệnh ở lại cùng lực lượng tại chỗ trục vớt vũ khí. 8 thuyền còn lại tiếp tục lên đường. Trong khi đó, địch tăng cường phương tiện, bắn pháo sáng vây ép suốt dọc bờ biển và dùng loa kêu gọi đầu hàng. Đến Nam Cửa Tùng, 2 chiếc bị dạt vào bờ, một chiếc bị địch vây bắt, 6 thuyền viên bị địch bắt.
Theo lịch sử, năm 1968 là năm địch tập trung lực lượng cao nhất đánh phá vào địa bàn Quảng Bình. Đây cũng là năm chiến tranh nhân dân trong tỉnh phát triển đến đỉnh cao và giành được thắng lợi to lớn. Riêng từ tháng 1-10/1968, quân và dân trong tỉnh đã bắn rơi 191 máy bay Mỹ (dân quân tự vệ bắn rơi 50 chiếc). |
Sau đợt vây ép, những thuyền còn lại luồn lách, thoát khỏi vòng vây, đi vào phía Nam Cửa Việt và đến được địa điểm quy định. Sau khi giấu vũ khí và giao hàng xong, theo kế hoạch, đoàn sẽ trở ra, nhưng để giữ bí mật, những chiếc thuyền này phải phá hủy. Các thuyền viên phải đi bộ, vượt đường Trường Sơn, theo đường giao liên sang Sạ-vẳn-na-khệt, Khăm Muồn (Lào), rồi vượt đèo Mụ Giạ về quê. Các thuyền viên bị địch bắt đưa vào Đà Nẵng, sau đó đưa ra giam tại nhà tù Côn Đảo (Phú Quốc), đến năm 1973 mới được trao trả theo Hiệp định Pari.
Sau chuyến vận chuyển VT5, cũng giống như những người dân khác, ông Biểu về quê tiếp tục vừa đánh cá vừa chiến đấu. Ông chia sẻ: “Nếu trong kháng chiến chống Pháp, người Cảnh Dương đã rào làng chiến đấu, “quyết tử giữ làng”, thì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, người Cảnh Dương tiếp tục “tay chèo tay súng, tay lưới tay súng”, quyết tâm “một tấc không đi, một ly không rời”, đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến đó, nhân dân Cảnh Dương phải chịu hơn 2.300 lượt máy bay, tàu chiến Mỹ bắn phá, hơn 16.000 quả bom các loại, gần 3.000 loạt rốc-két, hơn 2.300 quả đạn pháo... Thế nhưng, người dân nơi đây, vẫn bám làng, bám biển vừa sản xuất vừa chiến đấu, bắn rơi 3 máy bay, bắn cháy 2 tàu chiến của địch. Truyền thống anh hùng đó là những trang sử vàng của quê hương, góp sức cùng cả nước bảo vệ nền hòa bình, thống nhất đất nước”.
Dương Công Hợp