Đất và người Quảng Bình
icon facebookFacebook icon phoneLiên hệ
icon categoryChuyên mục

Từ sông Gianh đến cầu cảng K15... hướng về Nam - Bài cuối: Những người viết huyền thoại

  • 10:00 | Thứ Năm, 21/10/2021
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Lịch sử đoàn tàu không số và đường Hồ Chí Minh trên biển ghi lại những chiến công vô cùng to lớn mà thầm lặng của hàng nghìn cán bộ, chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam. Họ là những cái tên đi vào huyền thoại: Bông Văn Dĩa, Lê Văn Một, Nguyễn Phan Vinh, Ngô Văn Thứ, Nguyễn Bất, Nguyễn Quốc Thắng, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhợ, Dương Văn Lộc… Có những người mãi mãi nằm lại nơi biển, đảo thiêng liêng Tổ quốc. Với riêng tỉnh Quảng Bình, hàng trăm người lính Hải quân tham gia vào các đoàn tàu không số chi viện cho chiến trường miền Nam. Những ngày tháng 10 lịch sử, chúng tôi đã gặp một người con Quảng Bình như thế tại TP. Hồ Chí Minh, ông là đại tá Phạm Duy Tam.
 
Trong căn hộ ở chung cư An Cư, TP. Thủ Đức (TP. Hồ Chí Minh), đại tá Phạm Duy Tam lật từng tấm hình, xem từng trang tài liệu, lần tìm ức ký một thời hào hùng. Ở tuổi thất thập, hàng tuần vẫn đến Bệnh viện Quân y 175 chạy thận nhưng trí nhớ của ông vẫn rất minh mẫn. Thời đánh Mỹ, ông là một trong những thuyền trưởng của đoàn tàu không số. Với ông, ký ức những chuyến tàu không số chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí.
 
Đại tá Phạm Duy Tam quê ở xã Hải Trạch (Bố Trạch). Tháng 4-1963, ông nhập ngũ, vào lực lượng Hải quân ở sông Gianh, sau đó đi học tại Trường sỹ quan Hải quân. Năm 1969, ông về công tác tại Đoàn 125 Hải quân với chức danh thuyền phó tàu 42 vận chuyển hàng đặc biệt và vũ khí từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Năm 1972, ông được cử làm thuyền trưởng.  
 
“Hồi đó khó khăn, tàu không được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại như bây giờ. Trên tàu chỉ có 1 la bàn từ, 1 đồng hồ thiên văn, 1 quả bầu trời sao, 1 máy 1/6 để đo mặt trời, trăng, sao và 1 bộ kính thiên văn, không có định vị, la bàn con quay, máy đo sâu, máy tính đường, thông tin liên lạc chủ yếu đánh moóc tạch tè. Việc xác định hướng và vị trí vô cùng khó khăn nếu không có kinh nghiệm và kỹ thuật đo đạc thiên văn.
 
Thường trước mỗi chuyến đi, tàu chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm khô và tươi, dầu, nước các loại (tất cả đều không có nhãn hiệu) đủ dùng trong thời gian 1 tháng. Toàn tàu tập trung huấn luyện sử dụng các loại vũ khí, xử lý mọi tình huống có thể xảy ra trên biển, các phương án rời tàu, đánh bộc phá khi cần thì phá hủy tàu…”, đại tá Phạm Duy Tam nhớ lại.
Đại tá Phạm Duy Tam (người cầm lái ca-nô) tại đảo Song Tử Tây, quần đảo Trường Sa những ngày sau năm 1975
Đại tá Phạm Duy Tam (người cầm lái ca-nô) tại đảo Song Tử Tây, quần đảo Trường Sa những ngày sau năm 1975.
“Một điều không thể không thực hiện, đó là lễ truy điệu sống cho những người đi làm nhiệm vụ trên các chuyến tàu không số”- tiếng đại tá Tam bỗng dưng chùng xuống- “Những người ở lại từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho tới đồng đội đều không cầm được nước mắt. Đồng đội coi chúng tôi là những cảm tử quân vì sự sống và cái chết quá mong manh. Phía trước là bão tố, bom đạn kẻ thù, phía sau là tiếng quê hương thôi thúc. Tàu thì nhỏ mà biển khơi bao la, muôn trùng kẻ thù. Nhưng không ai sờn lòng cả. Chúng tôi hiểu mỗi khẩu súng, viên đạn, hộp thuốc... vào chiến trường miền Nam quý giá vô ngần”.
 
“Một nguyên tắc bất di bất dịch là bí mật con đường. Do đó, trong trường hợp bị địch phát hiện, truy kích, có khi phải tự dùng bộc phá để phá hủy tàu, không để người và vũ khí lọt vào tay kẻ thù, không để lộ tuyến vận tải biển chiến lược này", vị đại tá nhấn mạnh. Gần 10 năm đi cùng các con tàu không số, đại tá Phạm Duy Tam có 7 lần truy điệu sống. Nhiều chuyến đi của ông và đồng đội gặp bão tố và sự theo dõi gắt gao của kẻ địch nhưng nhờ sự mưu trí, khôn khéo và tinh thần quả cảm, họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
 
Các cựu binh Đoàn tàu không số tại bến K15, điểm xuất phát đường Hồ Chí Minh trên biển (đại tá Tam đứng thứ 3 từ phải sang) - Ảnh Báo HQND.
Các cựu binh đoàn tàu không số tại bến K15, điểm xuất phát đường Hồ Chí Minh trên biển (đại tá Tam đứng thứ 3 từ phải sang) - Ảnh: Báo HQND.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất với đại tá Tam là chuyến đi trên tàu 42 trinh sát mở tuyến đường mới trên biển, chuẩn bị chiến dịch vận chuyển vũ khí vào miền Nam sau một thời gian tạm dừng do bị địch phát hiện. Chuyến đi này tàu không chở vũ khí mà chở 45 tấn dầu. Nhiệm vụ phải thăm dò các hành lang, kế hoạch phòng thủ, tuần tiểu và mạng lưới quan sát trên không, trên biển, dọc bờ ở miền Nam; nắm bắt quy luật hoạt động tàu chiến, máy bay địch, đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn của địch khi gặp tàu ta.
 
Ngày 20-8-1969, tàu 42 rời khu neo đậu bí mật, xuyên qua vịnh Bắc Bộ và các vùng biển Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Campuchia. Suốt hành trình, tàu không mang biển số hoặc tên tàu cố định, cũng không treo quốc kỳ của nước nào. Hơn 10 ngày đêm, vượt hơn 5.000 hải lý, tàu đến đảo Phú Quốc, sau đó tiếp cận đảo Thổ Chu vào ngày 1-9-1969.
 
Đến ngày 3-9, mọi việc trở nên bất lợi, bầu trời, mặt biển u ám và tầm nhìn xấu. Nhiều máy bay trinh sát Mỹ bắt đầu bám theo. Rồi đồng chí trực ca phát hiện 1 tàu chiến xuất hiện cách mũi tàu 42 khoảng 5 hải lý. Mọi người nhanh chóng vào vị trí chiến đấu, chuẩn bị điểm hỏa bộc phá khi cần thì phá hủy tàu.
 
Tiếng ông Tam trở nên rành rọt: “Có 4 tàu khu trục Mỹ bám theo, nếu không mưu trí dễ dẫn đến việc đối đầu không cân sức. Tôi quan sát những tàu này thấy chúng chắn ngang trên hướng đi tàu 42, sẵn sàng nã đạn. Thời gian rất ngắn, nếu thay đổi hướng, nhất định tàu Mỹ sẽ nghi ngờ và có thể xảy ra nổ súng. Chi ủy tàu quyết định chớp nhoáng “đường ta, ta cứ đi, vì đây thuộc đường hàng hải quốc tế. Tàu 42 điềm nhiên lướt qua trước mũi tàu địch".
 
Ông kể tiếp: "Tàu địch vẫn liên tục bám theo. Ban ngày dõi theo từ xa, đêm thì đến gần hơn, có khi nhìn thấy đèn mạn xanh đỏ trên tàu. Chúng muốn vây, ép tàu 42 vào các bãi cạn, san hô, đá ngầm. Có lúc, tàu Mỹ cố tình lao thẳng vào tàu chúng tôi, song gần đến nơi chúng tự bẻ lái tránh. Cứ như vậy, gần cả tuần trên biển, chúng không đánh hơi được gì, đành phải bỏ đi. Cuộc đấu trí ấy chúng tôi đã thắng. Đến ngày 9-9-1969, tàu chúng tôi cập bờ an toàn”.
 
Sau chuyến trinh sát dài nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển năm 1969, nhiều con tàu không số chở đầy hàng đặc biệt và vũ khí đã vào miền Nam thành công.
 
Hướng về bức ảnh Bác Hồ đội chiếc mũ Hải quân Nhân dân Việt Nam treo trang trọng trên tường, tiếng ông Tam trầm buồn: “Chuyến đi biển giữa tháng 8-1969 với chúng tôi không chỉ đáng nhớ vì hiểm nguy trên biển mà còn vì nhận tin Bác Hồ mất. Lúc đó, tàu đến ngang bờ biển Phan Thiết, cách đất liền khoảng 120-150km thì nhận bức điện tối khẩn “Bác Hồ của chúng ta đã ra đi, nhưng các đồng chí không được treo cờ tang, không được để tang, đặc biệt mọi người hành động phải thật bình thường, tuyệt đối không để cho kẻ địch phát hiện dấu hiệu gì nghi ngờ đó là tàu của miền Bắc Việt Nam”. Trong niềm tiếc thương vô hạn, chúng tôi cố nén đau thương, biến đau thương thành hành động, nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ, sớm quay về để tang Bác. Vừa cập bờ an toàn, được phép của cấp trên, tàu 42 đã để tang Bác một ngày và cho tàu trở về cảng K20 của đơn vị”.

Cả cuộc đời đại tá Phạm Duy Tam gắn bó với Hải quân, với biển. Từ thuyền trưởng, ông lên chức Hải đội trưởng rồi Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 161, Phó chỉ huy trưởng  Vùng 3 Hải quân và Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, đến tháng 10-2004 thì nghỉ hưu.  Trở về cuộc sống đời thường, ông vẫn giữ được tác phong nhanh nhẹn như hồi còn công tác và tham gia tích cực các hoạt động phong trào địa phương.

Hằng năm, đến ngày truyền thống của Lữ đoàn 125, ông lại được gặp mặt đồng đội, cùng ôn lại những kỷ niệm, nhớ về những đồng đội đã khuất. 
 
Năm tháng qua đi nhưng đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là niềm tự hào của quân đội, nhân dân, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc.
 
                         Nguyễn  Văn Dưỡng 
 (Phó Chủ tịch Hội Đồng hương Quảng Bình tại TP. Hồ Chí Minh)

tin liên quan

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tài và đức vẹn toàn!

(QBĐT) - Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo khẳng định: "Võ Nguyên Giáp là bậc thầy về cách đánh. Ông luôn tìm ra cách đánh độc đáo và sáng tạo, vừa bảo đảm thắng lợi cao nhất vừa hạn chế thấp nhất thương vong cho chiến sỹ…

Người Rục và một thập kỷ bứt phá!

(QBĐT) - Nếu tính về tuổi xã hội, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Rục (Thượng Hóa, Minh Hóa) được ví như người em út. Họ được Đảng, Nhà nước "chăm sóc" nhiều hơn trong quá trình hòa nhập cộng đồng. 

"Văn nghệ sỹ Quảng Bình phải đóng góp nhiều hơn cho VHNT nước nhà..."

(QBĐT) - Sinh thời, dù bận rộn việc nước, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn luôn dành nhiều tình cảm cho các văn nghệ sỹ. Và với các văn nghệ sỹ quê nhà, Đại tướng bao giờ cũng dành sự quan tâm đặc biệt với những góp ý, sẻ chia chân thành...