Hạnh phúc lứa đôi và tình yêu Tổ quốc trong "Sắc biển hương rừng"
(QBĐT) - (Nhân đọc tập truyện ký “Thao thức biển”)
Đến với truyện ngắn “Sắc biển hương rừng” trong tập truyện ký “Thao thức biển” của Nguyễn Tiến Nên, người đọc không khỏi “thao thức” cùng tác phẩm. Bằng cảm quan hiện thực về đề tài chiến tranh và thời hậu chiến, truyện ngắn đã phản ánh những nỗi đau thương, mất mát của dân tộc, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử.
Nguyễn Tiến Nên sinh năm 1954, quê ở xã Quảng Đông, sống và viết tại xã Cảnh Dương (Quảng Trạch). Một con người đa tài, làm báo, nhiếp ảnh, viết văn, làm thơ; lĩnh vực nào tác phẩm của anh cũng sắc nét, có chiều sâu và giá trị nghệ thuật. Đến nay, anh đã cho ra đời 5 tập thơ và hai tập truyện ký: “Bến” (tập thơ)-Nhà xuất bản (NXB) Hội Nhà văn năm 2018; “Cảnh Dương tình đất tình người” (tập ký)-NXB Thuận Hóa năm 2020; “Hơn cả tình yêu” (tập thơ)-NXB Thuận Hóa năm 2020; “Tái Sinh” (tập thơ)-NXB Thuận Hóa năm 2020 (Giải B-Giải VHNT Lưu Trọng Lư năm 2015-2020); “Lời thỉnh cầu từ đất” (tập thơ)-NXB Hội Nhà văn năm 2023; “Thao thức biển” (tập truyện ký)-NXB Hội Nhà văn năm 2023; “Vụn và lành” (100 bài thơ 1,2,3)-NXB Hội Nhà văn năm 2024.
![]() |
Truyện ngắn “Sắc biển hương rừng” kể về một làng quê vào thời chống Mỹ, nhân vật chính là Toàn và Thủy. Họ thân nhau khi bắt đầu vào học cấp II. Nhà họ cùng tựa lưng vào một quả đồi, gọi là “động Mù U” và đều nhìn ra hướng biển. Trên đồi, có một loài bông trang hay còn gọi là mẫu đơn, cây xanh biếc, hoa nở bốn mùa. Thủy rất yêu loài hoa ấy. Chiến tranh nổ ra, máy bay Mỹ ném bom bắn phá, động Mù U là nơi che chở dân làng, nơi lưu dấu bao kỷ niệm của chàng trai cô gái chia tay lên đường nhập ngũ.
Toàn cũng như bao chàng trai khác, học hết cấp II, anh vội vã tạm xa bạn bè, trường lớp để lên đường theo tiếng gọi của non sông. Ngày chia tay, “Thủy thấy lòng mình hụt hẫng và buồn vô cớ”, nàng “vùi mặt vào chiếc khăn mỏng…”; còn “Toàn bước xăm xăm trên mặt đê” với “túi hành lý lép kẹp lủng lẳng bên vai”... Hình ảnh gợi cho người đọc không khỏi chạnh lòng.
Văn học cổ cận đại Việt Nam cũng không ít những câu chuyện kể về cảnh chia tay đầy lưu luyến như: Nỗi sầu nặng trĩu khi phải tiễn chồng ra đi chiến trận của nàng Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ; hay cuộc chia tay đầy xót thương của đôi vợ chồng trẻ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn... Cuộc chia tay của Toàn và Thủy thật đẹp, thật thiêng liêng cao quý. Đó là cuộc chia tay vì tình yêu Tổ quốc, là niềm tự hào, khát khao của lớp lớp thanh niên lên đường đánh giặc cứu nước, giải phóng quê hương.
Đế quốc Mỹ ném bom bắn phá, “thôn xóm tiêu điều, động Mù U dày đặc hố bom”; chiến trường miền Nam ngày càng ác liệt. Toàn bị thương và được ra Bắc điều trị, một cuộc gặp lại không ngờ. “Họ đi bên nhau, thực mà như mơ, bao kỷ niệm dồn về như làn gió mơn man trên mặt sông”. Thời gian điều trị tại bệnh viện quân y gần quê cũng là điều kiện để Toàn và Thủy có cơ hội bên nhau, tình yêu của họ vì thế lớn dần... Để rồi, khi Toàn ra viện, “cái xã vùng cao này được chứng kiến hạnh phúc của đôi trai gái”. Hạnh phúc chưa ấm gối tân hôn, cuộc chia tay thứ hai tiếp diễn, “Toàn trở lại chiến trường. Thủy tiễn chồng gần hai chục cây số” được tác giả miêu tả khá gọn gàng, lướt qua.
Chiến tranh mà! “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Nguyễn Mỹ). Thủy ở nhà “lấy công việc làm niềm vui”. Phong trào thanh niên lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc, Thủy được sự ủng hộ của hai bên gia đình, làng xóm, quê hương. Thế là, cô lại đứng vào hàng ngũ lên đường phục vụ chiến đấu. Tại chiến trường, sau những lần máy bay địch oanh tạc, “mặt đất bình yên trở lại”, một đơn vị bộ đội hành quân ngang qua, “trong đoàn quân đó có Toàn, chồng Thủy”.
Cuộc gặp gỡ “chớp nhoáng” đầy cảm động giữa chiến trường, họ trao nhau những nụ hôn vội vã và “cái nhìn đầy thông cảm”. Đâu ngờ, cuộc gặp gỡ và chia tay nơi chiến trường khốc liệt ấy, cũng là lần cuối cùng đôi vợ chồng trẻ được sống bên nhau. Thủy bị “những cơn sốt ác tính liên tục đè bẹp”, cô được đơn vị cho chuyển về hậu phương điều trị nhưng không kịp. “Chị đã vĩnh viễn gửi lại tuổi hai mươi đẹp đẽ của mình giữa khu rừng mé Đông Trường Sơn”.
Giải phóng miền Nam và cuộc chiến đấu giúp nước bạn kết thúc. Toàn đau khổ khi hay tin vợ đã hy sinh. Anh vượt hơn trăm cây số để đi tìm mộ Thủy và nghẹn ngào đứng lặng trước tấm bia “Liệt sỹ Dương Thị Thủy…”, khi “trên tay ngoài giỏ bánh trái và hương nước là một bó mẫu đơn rừng…”. Hình ảnh chạm đến tận cùng trái tim người đọc về sự hy sinh của một thế hệ vì nước quên thân.
Đất nước hòa bình, với phẩm chất người lính cụ Hồ, người cựu chiến binh mang thương tật hạng hai đã không ngần ngại tìm hiểu các phương thức phát triển kinh tế. Toàn tìm đến “một vùng đất bên kia sông Cái” để mưu sinh. Cuộc sống đưa đẩy, anh đã tìm được nửa mảnh ghép của cuộc đời, một thiếu phụ có chồng hy sinh ở mặt trận phía Nam. Toàn và Liên kết nghĩa vợ chồng. Sau lần đau khổ, họ không giữ được đứa con ban đầu vì hậu quả của chất độc đi-ô-xin từ bố. Mãi một thời gian, niềm hy vọng đã đến, anh chị có với nhau “đứa con trai duy nhất”. Và thế, hàng năm “tổ ba người” lại ngắt một ít hoa mẫu đơn đi chăm sóc cho hai phần mộ.
Câu chuyện khép lại bằng kết thúc có hậu, cho dầu có những mất mát thương đau, nhưng nó mở ra ý nghĩa lớn. Đó là, hạnh phúc lứa đôi và tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh của Thủy, của chồng Liên (vợ của Toàn sau này) đã góp phần làm nên chiến thắng, đất nước thống nhất hòa bình. Tấm gương của các anh, các chị mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Trần Đình