.

Vua Minh Mạng với việc thành lập bộ máy hành chính tỉnh Quảng Bình

.
06:48, Thứ Sáu, 16/03/2012 (GMT+7)

(QBĐT) - Những cải cách hành chính của Minh Mệnh năm 1831-1832 có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố quyền lực tập trung của chính quyền trung ương, củng cố sự thống nhất trong lãnh thổ quốc gia. Việc phân chia các tỉnh trong cả nước không có gì xáo trộn về mặt địa lý, với sự hợp lý về mặt địa lý - nhân văn, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của địa phương, có tính đến sự kế thừa quá khứ vừa dựa trên sự ổn định lâu dài trong lịch sử. Tỉnh Quảng Bình được thành lập đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình khai thiết của một vùng đất đầy biến động, đặc biệt là sau thời kỳ phân chia, cát cứ dưới thời Trịnh - Nguyễn.

>> Vua Minh Mạng với việc thành lập bộ máy hành chính tỉnh Quảng Bình

Bộ máy hành chính cấp tỉnh được tổ chức chặt chẽ, đảm nhận chức năng quản lý hành chính, hành pháp, kinh tế, quân sự đã có một bước tiến so với dưới các triều đại trước đây. Hình thức tổ chức đó được duy trì suốt chế độ phong kiến nhà Nguyễn và sau đó cả trong thời gian khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta.

Cùng với việc thành lập bộ máy hành chính cấp tỉnh, Minh Mệnh cũng đã có những cải cách hệ thống hành chính cấp dưới là phủ, huyện và làng, xã. Thời Gia Long dưới doanh, trấn có nhiều phủ, mỗi phủ có nhiều huyện, mỗi huyện có nhiều xã. Gia Long đặt chức tri phủ, tri huyện; mỗi phủ, huyện đều có hai viên (gọi là Đông Đường và Tây Đường), giúp việc quản lý mỗi phủ huyện tùy công việc và quy mô mà số người ít, nhiều không nhất định. Minh Mệnh đã công bố nhiều khuyến định nhằm quy chuẩn hóa hàng ngũ quan lại phủ, huyện.

 Năm 1823, Minh Mệnh xuống chỉ quy định mỗi phủ, huyện chỉ đặt một viên quan đứng đầu, chỉ nơi nào nhiều việc thì bên cạnh tri phủ có thêm đồng tri phủ và tri huyện có thêm huyện thừa.

Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), trên cơ sở số "đinh" và "điền", triều đình ban bố nghị chuẩn cho đặt 1 viên tri phủ ở những phủ số đinh chưa đến 2 vạn suất, số ruộng chưa đến 4 vạn mẫu; 1 viên tri huyện ở những huyện số đinh chưa đến 5 nghìn suất, số ruộng chưa đến 2 vạn mẫu.

Triều đình Minh Mạng còn định ra các loại phủ huyện trong cả nước, Theo Nghị chuẩn được ban bố vào năm 1827 thì phủ, huyện được chia thành 4 loại:

Tối yếu khuyết (rất nhiều việc)

Yếu khuyết (nhiều việc)

Trung khuyết (việc vừa)

Giản khuyết (ít việc)

Các đơn vị hành chính cấp phủ huyện đầu đời nhà Nguyễn có những thay đổi như sau:

Tỉnh Quảng Bình có 2 phủ Quảng Ninh và Quảng Trạch với 6 huyện. Đổi phủ Quảng Bình (được thành lập từ thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng 1603) thành phủ Quảng Ninh (lúc này đã thành lập tỉnh Quảng Bình).

Phủ Quảng Ninh có địa giới phía nam giáp huyện Minh Linh tỉnh Quảng Trị, phía bắc giáp huyện Bố Trạch thuộc phủ QuảngTrạch.  Phủ Quảng Ninh xưa là châu Địa Lý nước Chiêm Thành; đổi làm châu Lâm Bình; đời Trần đổi làm phủ Lâm Bình, đời Lê đổi thành phủ Tiên Bình; đời chúa Nguyễn đổi thành phủ Quảng Bình. Đến năm 1831, đổi thành phủ Quảng Ninh.

 Phủ Quảng Ninh có 3 huyện, với 13 tổng, 161 xã thôn ấp.

Ba huyện của phủ Quảng Ninh từ phía nam ra là:

 - Huyện Lệ Thủy: đời Lý thuộc châu Lâm Bình, đời Trần là huyện Nha Nghi, đời Lê là huyện Lệ Thủy cho đến đời Nguyễn. Huyện Lệ Thủy lúc này có 5 tổng, 55 xã ,thôn, phường, ấp, giáp. Đến đời Thành Thái thứ 13 (1901) có cắt 8 thôn chuyển cho huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị 4.

- Huyện Phong Đăng (sau đổi tên là huyện Phong Phú) nằm giữa huyện Lệ Thủy và Phong Lộc; có 4 tổng 48 xã, thôn, phường, ấp, giáp. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) bỏ tri huyện, công việc của huyện do phủ Quảng Ninh kiêm nhiệm.

- Huyện Phong Lộc phía bắc giáp huyện Bố Trạch, phía nam giáp Phong Đăng và Lệ Thủy. Đời Lý thuộc châu Lâm Bình, cuối đời Trần là huyện Phúc Khang; đời Lê đổi là Kiến Lộc sau đổi Khang Lộc; đến Gia Long năm thứ 18 (1820) đổi Phúc Lộc. Lúc này có 4 tổng, 58 xã, thôn, phường, ấp.

Phủ Quảng Trạch: phía bắc giáp địa giới huyện Kỳ Anh, phía nam giáp huyện Phong Lộc phủ Quảng Ninh. Xưa là châu Bố Chính đời thuộc Minh là châu Chính Bình, đời Lê đổi lại Bố Chính, lệ vào phủ Tân Bình, thời Trịnh - Nguyễn là châu Bắc Bố Chính (thuộc Trịnh), Nam Bố Chính (thuộc Nguyễn) Đời Tây Sơn hợp hai châu thành châu Thuận Chính, đời Gia Long là Bố Chính Nội và Bố Chính Ngoại lệ vào phủ Quảng Bình. Lúc này phủ Quảng Trạch có 3 huyện gồm 11 tổng 184 xã, thôn, phường, ấp, giáp.

Linh Giang hiền hòa. Ảnh: T.H
Linh Giang hiền hòa. Ảnh: T.H


Ba huyện của phủ Quảng Trạch là:

- Huyện Bình Chính: bắc giáp Đèo Ngang, nam giáp huyện Bố Trạch có 3 tổng, 50 xã, thôn, phường, ấp, giáp.

- Huyện Minh Chính ở phía tây phủ Quảng Trạch (Vùng Tuyên, Minh Hóa hiện nay) có 3 tổng 76 xã thôn ấp phường giáp. Năm tự Đức thứ 4, bỏ tri huyện, công việc ở huyện do phủ kiêm nhiệm.

- Huyện Bố Trạch: có 5 tổng, 59 xã thôn phường ấp giáp.

Đối với Quảng Bình, tổ chức phủ, huyện được thiết lập từ thời Minh Mạng về cơ bản đã hoàn thành.

Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) đặt thêm huyện Tuyên Hóa thuộc phủ Quảng Trạch. Như vậy, phủ Quảng Trạch có các huyện: Tuyên Hóa, Bình Chính, Minh Chính, Bố Trạch. Trong đó hai huyện Bình Chính và Minh Chính do Tri phủ Quảng Trạch kiêm nhiếp, Phủ Quảng Ninh có các huyện Phong Lộc, Phong Phú (Phong Đăng) và huyện Lệ Thủy. Huyện Phong Lộc và Phong Phú đều do Tri phủ Quảng Ninh kiêm nhiếp.

Cuối thời nhà Nguyễn, các huyện Phong Lộc, Phong Phú đều nhập vào phủ Quảng Ninh. Huyện Bình Chính và Minh Chính nhập vào phủ Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình  có 2 phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh, 3 huyện là Tuyên Hóa, Bố Trạch và Lệ Thủy

Tỉnh thành Quảng Bình thời nhà Nguyễn đóng ở hai xã Động Hải (Đồng Hới) và Phú Ninh thuộc huyện Phong Lộc.

Trị sở của các phủ, huyện ở Quảng Bình ở những địa phương sau:

- Phủ Quảng Trạch có trị sở ở Phan Long hay Ba Đồn.

- Huyện Tuyên Hóa có trị sở ở Đạm Thủy hay Chợ Gát sau dời xuống Minh Cầm.

- Trị sở huyện Bố Trạch thời Gia Long dựng ở phường Phúc Tự; năm Minh Mệnh thứ 3 dời đến Mỹ Lộc sau này là Hoàn Lão (chợ Đón).

- Trị sở phủ Quảng Ninh thời Gia Long ở xã Yên Cư, năm Minh Mệnh thứ 7 mới đặt làm lỵ sở của phủ ở Trung Trinh sau đó dời về Quán Hàu.

- Trị sở huyện Lệ Thủy ở xã Cỗ Liễu (chợ Tréo)

Mỗi phủ, huyện chia thành 5 đến 7 tổng, mỗi tổng có 3, 4 đến 20, 21 làng xã, thôn, trang, ấp, giáp hay phường. Một số nơi có dân tộc ít người được gọi là " sách". Cả tỉnh có 29 tổng, 376 làng (bao gồm cả thôn, trang, ấp, giáp, phường).

Số làng (xã, thôn, trang, ấp, phường) của các tổng, huyện, phủ ở Quảng Bình đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có:

Huyện Tuyên Hóa có 5 tổng:

- Tổng Thượng Lưu có các  xã: Cao Trạch (Kẻ Má), Thạch Sơn (Con Lẻ), Thiết Sơn (Làng Ống); các thôn: Đạm Thủy (Chợ Gát), Minh Cầm Trung, Minh Cầm Ngoại (Cồn Dâu), Minh Cầm Nội thôn (Cồn Trưa), Phúc Lâm thôn (Trìm); các phường: Sảo Phong, Kinh Trừng, Phú Sơn, Thượng Lâm, Đồng Tam (Làng Mét), Phúc Sơn (Trìm Thượng).

- Tổng Thượng Nguyên có xã Kim Lũ; các phường: Xuân Canh, Tam Đa, Đông Ca phường, , Lệ Tửu (Chưn Cuông), Đồng Giang (Còi Giang), Đồng Lê, Đồng Cao (Chợ Lào), Ba Tâm, Khe Trừng, Đại Hòa, Kiều Mộc, Thuận Hoan, Đồng Văn (Còi Lôi), Tân Ninh, Hà Sơn (Hà Giung); các ấp: Phú Ninh, Khe Nét; và trang Thượng Phong.

- Tổng Cơ Sa có xã Lâm Sum (Râm Râm); các phường: Quy Hợp, Tân Hợp, Tân Xuân, Tân An (La Ôn), Lương Năng; các thôn: Quy Đạt (Kẻ Sạt), Tân Kiều (Làng Cầu), Thanh Long (Làng Rồng), Tân Sum (Mọ Cua), An Đức, Ba Nương, Đa Năng (Làng Ải).

- Tổng Kim Linh có các thôn: Cổ Liêm (Làng Trẹm), Kim Bảng (Làng Xét), An Thọ (Làng Bộc), Tân Lý (Làng Lý), Lạc Thiên; các sách: Cát Đặng (Rục), Lương Năng, Gia Ốc và phường Ca Nheo.

- Tổng Thanh Lạng có các xã: Thanh Lạng, Thanh Thạch (Đá Nâm), Bãi Đức; thôn Thanh Thiền (Cọng Ve) và phường Kim Trinh (Xóm Thành).

Phủ Quảng Trạch có 5 tổng:

- Tổng Lư Phong có các xã: Hướng Phương, Lộc Điền (Chợ Thành), Hậu Lộc, Văn Lôi, Phù Lưu, Đông Dương, Trung Thuần, Pháp Kệ, Văn Tân, Lư Phong (Lư Đăng); các thôn: Tô Xá, Phú Ninh, Tân Phong (Kinh Kịa) và phường Cồn Sẻ (Cồn Giữa).

- Tổng Thuận Hòa có các xã: Di Luân, Tòng Chất, Kiêm Long (Kẻ Càng), Quảng Châu; các thôn: Phúc Kiều (Kẻ Rốn), Phú Lộc, Tùng Lý, Năm Lãnh, Bắc Hà, Liêu Sơn, Thủy Vực (Làng Vặc), Hùng Sơn; trang Thọ Sơn và giáp Hòa Bình.

- Tổng Thuận Thi có các xã: Phù Trạch, Lâm Xuân, La Hà, Văn Phú (Kẻ Đáy), Biểu Lệ (Kẻ Biểu); các thôn: Vĩnh Lộc, Hòa Ninh (Làng Đoàn), Giáp Tam, Tiên Lệ Hạ (Hạ Thôn), Tiên Lệ Trung (Trung Thôn), Tiên Lệ Thượng (Thượng Thôn), Minh Lệ, Thọ Linh, Diên Trường, Vĩnh Phúc (Làng Ngan); các phường: Tam Trang, Nội Hà (Ba Cồn), Cao Lao.

- Tổng Thuận Lệ có các xã: Thanh Thủy, Lệ Sơn Thượng, Kinh Nhuận, Thiên Lễ Thượng, Hòa Lạc, Cảnh Dương (Kẻ Xã), Vĩnh Sơn, Di Lộc; các phường:  Ngư Vọng, Cao Mai (Mai), Ngọa Cương (Lò Độôc); các trang: Uyên Phong, Kinh Châu, Lạc Sơn, Lạc Giao (Hạ Trang).

Tổng Thuận Bài có các xã: Mỹ Hòa, Thổ Ngọa, Tác Loàn (Sầu Đậu), Đơn Sa, Thuận Bài, Thọ Sơn, Xuân Mai, Tiên Lang, Thanh Sơn, Cổ Cảng, Phù Kinh, Lâm Lang, Cương Gián (Kẻ Lái), Tiên Lương, Kim Thành; các thôn: Tượng Sơn, Lương Trình, Chánh Trực (Kẻ Gián), Phan Long (Ba Đồn), Nghĩa Nương (Kẻ Đại) Xuân Kiều, Giêng Phúc, Nhơn Thọ, Hà Công, Lệ Trung (Kẻ Chuông); các phường: Ngoại Hải (Kẻ Câu), Trúc Lâm, Vong Phi (Xuân Hồi).

Huyện Bố Trạch có 4 tổng:

Tổng Cao Lao có các xã: Cao Lao Hạ (Kẻ Hạ), Cao Lao Thượng (Kẻ Thượng), Cao Lao Trung (Kẻ Trung), Hà Môn, Cù Lạc, Bồ Khê (Kẻ Bồ), Cổ Giang (Làng Cồn), Phù Kinh (Kênh Tra), Thạch Ba, Đăng Đế (Kẻ Đồng); các phường: Bồng Lai (Làng Bùng), Phong Nha, Tân Châu, Phù Hữu, Bồ Khê (Làng Mối); các trang: Thanh Long, Gia Tịnh (Kẻ Giao), Xuân Sơn (Kẻ Sô), Hà Môn Thượng (Khố) và ấp Tân Thuận.

Tổng Liên Phương có các xã: Lâm Trạch, Đông Thành (Ba Đông), Huỳnh Trung, Hoành Kinh (Kẻ Nghen), Liên Phương (Sao Sa); Các trang Liên Phương Thượng (Kẻ Sen), Liên Phương Hạ (Kẻ Ngạn), Liên Phương Trung (Kẻ Bàng), Cu Hợp (Đá Mài) và phường Tư Lộc.

Tổng Hoàn Lão có xã Phúc Lộc; các thôn: Phúc Tự (Làng Chùa), Mỹ Lộc (Kẻ Gỗ), Lý Nhơn (Kẻ Náu), Hoàn Lão; các phường: Chánh Hòa (Dinh), Đại Lộc (Phường Bún); các trang: Nam Phúc (Nam Liêu), Hòa Duyệt (Kẻ Rấy), Võ Thuận (Kẻ La).

Tổng Hàn Phúc có các xã: Khương Hà, Vạn Lộc (Kẻ Hạc); các thôn: Hoàn Phúc (Kẻ Hạc), Phúc Lễ, Hỷ Duyệt (Kẻ Đòi), Cự Nẫm (Kẻ Nẫm); các trang: Thuận Phu, Đồng Cao,Thụ Lộc (Mục Tượng) và phường Phủ Định (Phường Mới)

Tổng Hà Bạc có các thôn: Thanh Hà, Lý Hòa (Kẻ Lái), Quy Đức, Lý Nhơn nam (Bến Nam), Lý Nhơn Bắc.

Phủ Quảng Ninh có 7 tổng:

- Tổng Thạch Bàn có các xã: Thạch Bàn (Kẻ Thẹc), Lai xá (Nhà Lai), Mỹ Đức, Hoàng Viễn, Ninh Lộc, Thương xá, Lộc Xá, Tân Lê (Kẻ Trìa), Xuân Hòa, Ngô Xá (Nhà Ngo), Phúc Vinh, Hoàng Đàm, Trung Tín, MInh Hương; các phường: Trung Đinh, Hướng Hương, thôn Phú Hội và ấp Ngân Sơn.

- Tổng Hoành Phố có các xã: Hoành Phố, Tân Lộc, Đại Phúc, Phúc Lương, Kim nại, Cao Xuân, Thu Thứ, Phúc Nhi, Đại Hữu (Làng Bún), Nguyệt Áng, Gia Ốc, Vinh Lộc, Thế Lộc, các phường: Phù Trình, Mỹ Lệ.

- Tổng Võ Xá có các xã: Võ Xá, Hàm Hòa, Diên Trường, Tả Phan, Hữu Niên, Lệ Mỹ (Tam Tòa), Chánh Cung, Minh Dương; các phường: Tung Dinh, Thạch Lũy, Kiên Bính, Trúc Ly, Hướng Dương, Phú Nhuận, Phù Mỹ; các thôn: Động Hải (Đồng Hới), Cừ (Làng Cừa), Phú Hội, Hà và ấp Tráng Liệp (Dinh Mười).

- Tổng Trung Quán có các xã: Cổ Biền, Phúc Long (Ke Rồng), Hiển Lộc, Quảng Xá, Vạn Xuân, Xuân Dục, Hiển Vinh (Kẻ Tùng) Mỹ Xá (Khe Thá), Hữu Lộc; ấp Phúc Tín.

- Tổng Long Đại có các xã: Long Đại, Lương Yến, Phúc Duệ, Trung Nghĩa, Trường Dục (Kẻ Tràng), Lộc Long (Kẻ Rây), Vĩnh Tuy, Văn La (Quán Hàu), Trung Trinh, Lệ Kỳ, Hữu Phan, Trần Xá (Nhà Tràn); các phường: Diêm Điền, Bình Phúc, Xuân Thị; các ấp: Hữu Hùng, Trường Môn (Cửa Trường), Hữu Tiệp (Ba Dãy), Hữu Hậu (Niêu Một); và thôn Đồng Tộc (Cửa Soi).

- Tổng Thuận Lý có các xã:  Thuận Lý, Phù Ninh, Phú Quý, Đức Phổ và các phường Mỹ Cương, Thuận Đức.

- Tổng Quảng Thạch có các thôn: Thạch Xá Hạ, Thạch Xá Bắc, Thạch Xá Tây, Mỹ Trung (Mỹ Hương); ấp Tạ Thắng (Quán Dâu) và phường Bối Sơn (Kẻ Bói).

Huyện Lệ Thủy có 7 tổng:

- Tổng Thủy Liên có các xã Đặng Lộc, Phò Chánh (Cung)

 Liêm Luật; các thôn Thủy Liên (Quán Sen), Thủy Liên Nam (Quán Trảy), Trung Luật (Cây Cúp), Hòa Luật nam (Ngoại Hải), Hòa Luật Đông (Hòa Đông), Hòa Luật Bắc (Hòa Bắc), Thủy Luật Tây, Thủy Liên Đông (Quán Cát), Thủy Liên Hạ (Quán Bụt) và ấp Phò Thiết.

- Tổng Mỹ Trạch có các xã Cổ Liễu (Tréo), Mỹ Thổ (Làng Ngói), Quy Hậu, Mỹ Trạch Thượng, Tâm Duyệt, Lâm Thiện (Làng Liêm), Dương Xá (Làng Liêm), Mỹ Trạch Hạ, Uẩn Áo (Nhà Ngo), Dương Xuân (Ba Canh); các phường Thuận Trạch (Trạm), Tân Mỹ (Mỹ Lệ), Tân Hậu, Tiểu Giang (Phường Tiểu); các ấp Mỹ Sơn (Thượng Lâm), Tân Hậu.

- Tổng Đại Phong Lộc có các xã Đại Phong Lộc (Đợi), Tuy Lộc (Tuy), An Xá (Thá); các thôn Mỹ Phước (Nhà Cồn), An Xá Hạ và phường An Lạc.

- Tổng Thach Xá có các xã Ba Nguyệt, Phù Việt, An Đình; các thôn Thạch Xá, Mỹ Duyệt (Kẻ Đa), Mỹ Duyệt Hạ (Cưởi) và ấp Bình Phú.

-  Tổng Thượng Phong Lộc có các xã Xuân Hồi (Hồi), Thượng Phong Lộc (Làng Tiểu), Phú Thọ (Nhà Ngò).

- Tổng Xuân Lai có các xã Xuân Lai, Hoàng Giang (Nhà Vàng), Quảng Cư (Làng Chềng), Mai Xá Thượng, Mai Xá Hạ (Làng Mòi), Xuân Bồ, Phan Xá (Nhà Phan), Lê Xá (Nhà Cai), Thạch Bàn Thượng (Chự Thẹc), Châu Xá (Kẻ Châu) và phường Phú Bình Thượng.

- Tổng Mỹ Lộc có các xã Mỹ Lộc (Mỹ Lược), Văn Xá, Lương Thiện, Lộc An (Lộc Hậu), Quy Trinh, Phú Hòa, Phú Gia, Phú Kỳ.

Công cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng đã đánh dấu một sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến trung ương tập quyền ở nước ta đầu thế kỷ XIX nói chung và ở Quảng Bình nói riêng. Bài viết này mong giới thiệu một giai đoạn lịch sử đặt nền móng trong quá trình phát triển lịch sử hành chính của tỉnh Quảng Bình sau này.

                                                                               Phan Viết Dũng

Tài liệu trích dẫn:

Cao Xuân Dục: Dư địa chí ước biên. NXB Văn học. HN. 2003. Tr 149

 

,