"Đoàn tàu không số" của Quảng Bình

Cập nhật lúc 10:54, Thứ Sáu, 21/10/2011 (GMT+7)

Ông Nguyễn Văn Biểu và nhiệm vụ hàng ngày của mình ở đài canh bão xã Cảnh Dương. Ảnh: Phương Lâm
Ông Nguyễn Văn Biểu và nhiệm vụ hàng ngày của mình ở đài canh bão xã Cảnh Dương. Ảnh: Phương Lâm

(QBĐT) - Sau Tết Mậu Thân năm 1968, để tiếp tế kịp thời, nhanh nhất cho chiến trường Trị Thiên - Huế đang thiếu lương thực, vũ khí, Tỉnh ủy Quảng Bình đã quyết định thành lập một đội thuyền 12 chiếc, giả dạng thuyền đánh cá để chở vũ khí, lương thực vào chiến trường... Đó là "đoàn tàu không số" của riêng Quảng Bình.

* Truy điệu sống

Tôi tìm về Cảnh Dương, một làng chài thơ mộng nằm dưới chân núi Phượng, bên dòng sông Loan (huyện Quảng Trạch), gặp những ngư ông từng cảm tử năm xưa đã đương đầu với máy bay, tàu chiến, chèo thuyền chở vũ khí chi viện khẩn cấp cho chiến trường Trị Thiên.  74 cảm tử quân trên đoàn tàu  ngày ấy bây giờ chỉ còn lại 19 người và cũng đã ở vào tuổi "cổ lai hy". Người trẻ nhất trong đoàn là ông Nguyễn Văn Biểu lúc đó là cậu thiếu niên 15 tuổi bây giờ cũng đã làm ông nội, ông ngoại. Thế nhưng, trong câu chuyện với tôi, chuyến đi ác liệt, hào hùng đó vẫn vẹn nguyên trong tâm trí của ông Biểu.

Đoàn vận tải đặc biệt được thành lập, ông Đậu Thanh Long, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 45 của Tỉnh đội được cử về làm đoàn trưởng. Toàn bộ 12 chiếc thuyền được cải tạo lại cho giống với thuyền ngư dân vùng Quảng Trị, Thừa Thiên. Dưới đáy thuyền đục một lỗ "lù" rồi nút lại để phòng khi bị địch bao vây thì rút chốt cho nước tràn vào nhấn chìm thuyền, không để địch phát hiện vũ khí. Một đêm biển động, từ Cửa Ròn, họ bí mật đưa thuyền vào Quang Phú gần cửa Nhật Lệ, không bốc hàng xuống bến mà kéo hẳn thuyền lên bờ, chất đầy thuốc nổ TNT, súng, đạn B40, B41, cối 82... tất cả 24 tấn, rồi giấu kín thuyền trong rừng dương liễu.

Ðúng ngày rằm tháng giêng năm Mậu Thân (1968), Ðài TNVN báo tin có đợt gió mùa đông bắc, biển động cấp sáu, cấp bảy. Đây cũng là thời điểm mà đoàn tàu quyết định lên đường. Chập choạng tối, ông Trần Sự (Tỉnh đội trưởng Quảng Bình lúc đó) đến tận nơi phát lệnh tiễn đoàn. Trong màn trời đen kịt, tiếng vị chỉ huy lẫn trong tiếng gió: "Ðồng bào, đồng chí Trị Thiên đang mong chờ các đồng chí. Cấp trên và bà con quê ta tin tưởng và tự hào về các đồng chí. Hãy xứng đáng là những người con ưu tú của quê hương Quảng Bình". 74 cánh tay vung lên, 74 trái tim thề sẽ hiến đến giọt máu cuối cùng để đưa hàng đến tay bộ đội miền Nam.

* Chuyến hải trình cảm tử       

Từng chiếc thuyền đầy ắp súng đạn được kéo ra, lao xuống nước. Ðoàn trưởng Ðậu Thanh Long phát tín hiệu bằng đèn pin, các thuyền giữ khoảng cách, giương buồm quay mũi về hướng nam.  Biển động, trời đêm che mắt địch, rạng sáng đoàn vận tải đến bắc vĩ tuyến 17. Thuyền được ngụy trang kỹ, vậy mà gần trưa máy bay trinh sát của địch vẫn phát hiện ra. Chỉ chốc lát, hai chiếc tàu chiến xuất hiện ngoài khơi đồng loạt nã pháo vào bờ. Một tốp máy bay lao đến giội bom mũi Si. Bốn thuyền bị trúng bom. Cũng may chỉ hỏng phần lái, thuyền chìm nhưng khoang vũ khí vẫn an toàn. Ðoàn trưởng quyết định để "thủy thủ" trên 4 thuyền đó ở lại cùng dân quân Vĩnh Linh trục vớt hàng lên bờ, 8 chiếc tàu còn lại  tiếp tục vượt tuyến vào Nam.

Khoảng 8 giờ tối, họ căng buồm vượt qua Cửa Tùng (Quảng Trị), trườn trên sóng nước miền Nam. Vừa qua khỏi Cát Sơn, một bầy máy bay lao đến. Pháo sáng đầy trời, treo ngay đỉnh cột buồm, soi rõ từng khuôn mặt. Mấy chiếc tàu địch vây kín ngoài khơi, chúng muốn bắt sống cả đoàn. Ðoàn trưởng Long lệnh cho các thuyền hạ hết buồm, dùng chèo tay. Vốn là những ngư dân dạn dày kinh nghiệm đi biển, họ tản ra, lợi dụng từng con sóng lớn sát bờ làm tấm chắn để men theo mà đi. Tàu giặc chỉ áp ngoài xa chứ không dám vào gần bờ, sợ sóng lớn và mắc cạn.

Nhờ những con sóng lớn, thuyền ta nhỏ, lại giữa đêm đen nên địch khó xác định mục tiêu. Ðạn đỏ rực mặt biển, một chiếc thuyền  do ông Phạm Ðờn chỉ huy bị bao vây và trúng đạn. Những chiếc tàu địch cặp sát, chỉ cần một phát B40 là hạ gục. Nhưng nếu họ bắn, kẻ địch sẽ phát hiện cả đường dây và cắt đứt đường tiếp tế ven bờ của ta. Là cảm tử quân, họ đã sẵn sàng cho tình huống này. Ông Ðờn quyết định hô anh em rút chốt lỗ "lù" cho nước tràn vào, quyết tử. Chiếc thuyền chìm dần cùng cả tiểu đội. Bọn giặc ào đến cố dùng móc kéo thuyền ta lên. Nhưng sức nặng của mấy tấn súng đạn đã giật đứt dây kéo, chúng chỉ bắt được người. Họ bị tra tấn thật dã man, nhưng trước sau cũng khai là ngư dân đi đánh cá bị gió mùa dạt vào. Chẳng khai thác được gì, chúng bắt giam họ hết nhà tù này đến nhà lao khác. Cuối cùng đày ra đảo Phú Quốc, mãi đến năm 1973 mới được trở về trong đoàn tù binh chính trị được trao trả. 

Ba chiếc thuyền đi giữa bị nhiều tàu địch kéo đến vây ép. Biết không thể thoát, họ lao thuyền vào dọc bãi cát huyện Gio Linh. Ở đó, lực lượng du kích địa phương đã kịp thời bốc vũ khí chuyển vào giấu trong các hầm bí mật. Các thuyền viên được bộ đội, du kích Gio Linh đón đến nơi an toàn, mấy ngày sau họ vượt vĩ tuyến 17 ra bắc. Riêng bốn thuyền đi đầu do đoàn trưởng Ðậu Thanh Long chỉ huy, lợi dụng tàu địch đang vây ép phía cuối, đoàn đã vượt qua được Cửa Việt vào vùng biển Triệu Phong. Rạng sáng, họ lao thuyền vào bờ, cách quân cảng Mỹ Thủy của giặc không xa. Họ bắt liên lạc được với du kích và trước khi trời sáng đã chuyển hết mười tấn vũ khí vào bờ giao cho đơn vị K.8 rồi hủy thuyền để xóa dấu vết. Sau đó, 23 cảm tử quân Cảnh Dương được bà con xã Triệu Vân, Triệu Phong nuôi giấu trong hầm bí mật, tham gia hoạt động chiến đấu cùng du kích địa phương  và sau đó vượt Trường Sơn trở lại quê hương.

Đã hơn 40 năm trôi qua, 74 ngư ông cảm tử ngày ấy giờ chỉ còn lại 19 người, trong đó có ông Nguyễn Văn Nhượng (nguyên Phó đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh). Hầu hết trong số họ đều là những ngư ông nghèo ở Cảnh Dương. Riêng "chú thiếu niên" 15 tuổi trẻ nhất đoàn cảm tử Nguyễn Văn Biểu bây giờ đảm nhiệm trực đài canh bão cho ngư dân trong xã. Đoàn trưởng Đậu Thanh Long bây giờ tuổi đã cao sức khỏe yếu lắm; nhưng họ vẫn thường gặp nhau trong ngôi nhà bé nhỏ của  ông để ôn lại những kỷ niệm ngày ấy. Gia cảnh thật nghèo nhưng không ai lấy đó làm buồn. Những cảm tử quân Cảnh Dương đã góp một phần công lao và xương máu để cùng dân tộc làm nên đại thắng lẫy lừng mùa xuân 1975. Có một điều không hiểu sao cho đến tận bây giờ vẫn chưa có một danh hiệu một tấm bằng khen nào để ghi nhận chiến công của đoàn cảm tử ngày ấy?

                                                                                                          Phương Lâm

,
.
.
.