Làng "sót" giữa rừng

Cập nhật lúc 09:33, Thứ Sáu, 30/09/2011 (GMT+7)

(QBĐT) - Cách trung tâm T.P Đồng Hới khoảng 10km có một làng tên Trạng, thuộc phường Đồng Sơn. Ở làng hiện còn nhiều người có gốc tích  từ thị xã Đồng Hới xưa. Nhiều người nói vui rằng họ và ngôi làng này đã bị “sót” lại giữa rừng sau chiến tranh.

Làng Trạng (còn gọi là tiểu khu Trạng) nằm lọt giữa vùng rừng hoang vu. Lên Trạng chỉ có một con đường độc đạo từ đường Hồ Chí Minh (nhánh Đông) chạy băng giữa rừng cây. Ban ngày đã vắng vẻ, về đêm con đường càng hiu quạnh hơn vì hai bên nhiều chỗ có mồ mả. Ít người vào Trạng khi trời đã tắt nắng. Người dân ở T.P Đồng Hới bây giờ nếu có biết về Trạng, cũng chỉ biết như mọi ngôi làng bình thường khác. Chỉ những người Đồng Hới gốc mới biết làng Trạng ra sao...

* Một thời là làng... phố

Năm 1965, khi Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đồng Hới trở thành đầu cầu của tuyến lửa, khi chỉ cách dòng sông Bến Hải chia cắt hai miền chưa đầy 80km. Thị xã nhỏ bên bờ sông Nhật Lệ từng được ví như một “Paris nhỏ” phải gánh chịu bom từ máy bay và pháo từ Hạm đội 7 của Mỹ rơi xuống suốt ngày đêm. 18.000 dân vùng nội thị vốn quen với cuộc sống tiện nghi điện, nước đã phải tản cư lên rừng, rồi tứ tán khắp mọi vùng quê... 

Ông Nguyễn Văn Mục, trưởng làng (tiểu khu trưởng), trầm tư hẳn khi nói về  chuyện cũ của ngôi làng và những người dân của làng. Ông cho biết từ tháng 8-1965 hàng nghìn người dân thị xã Đồng Hới đã giã từ mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình ở Đồng Đình, Đồng Hải, xóm Câu, xóm Chợ... tản cư lên rừng để quân và dân Quảng Bình bước vào cuộc chiến chống trả máy bay Mỹ. Đến tháng 6-1966, nhiều vùng rừng hoang vu phía tây Đồng Hới đã có tên là Trạng, Hà, Ba Đa, Cồn Chùa, Cầu Cúp... và trở thành thị trấn Đồng Sơn (Cộn), thủ phủ của tỉnh Quảng Bình thời chiến. Ông Mục hồi tưởng: “Thời kỳ mới tản cư lên, riêng làng Trạng đã có trên 500 hộ. Người dân đem hết nghề ở phố thị lên theo nên làng mở đến 14 loại nghề để tiếp tục mần ăn. Có cả nghề chụp ảnh, chữa đồng hồ, nhuộm áo quần, phấn viết bảng...

Sau 46 năm lập làng, đến nay làng Trạng mới có con đường bê tông. Ảnh: Thiên Hà
Sau 46 năm lập làng, đến nay làng Trạng mới có con đường bê tông. Ảnh: Thiên Hà

 Nhưng do chiến tranh ngày càng ác liệt nên nhiều hộ không còn sống được với nghề cũ nữa. Có hộ phải vào rừng tìm sản vật như lá mây, củi, lá tranh lợp nhà... để mưu sinh. Số thì từ dân phố thị trở thành nông dân của các hợp tác xã, cuốc đất trồng khoai, sắn, đậu mè theo tinh thần vừa sản xuất vừa chống Mỹ...”.

Đã 46 năm rồi, nhưng bà Trương Thị Tình vẫn chưa quên những ngày ấy: “Nhà tôi thuộc diện gia đình bộ đội nên phải tản cư. Ngày đó tôi đã khóc hết nước mắt, vì nơi ở mới không chợ, không điện, không trạm xá...”. Cũng nhờ cuộc tản cư qui mô như thế nên hầu hết người Đồng Hới đã bảo toàn được tính mạng, do thị xã đã bị san phẳng thành bình địa.

Từ năm 1975, lần lượt người dân Đồng Hới ở làng Trạng trở về nơi chôn nhau cắt rốn, tùy theo điều kiện kinh tế của từng nhà. Ông Mục bùi ngùi nói: “Đến năm 1977 ở Trạng còn 350 hộ. Khoảng năm 1995, 1996 chính quyền Đồng Hới có chính sách cấp lại đất ở quê cũ cho người dân gốc Đồng Hới đã tản cư lên Trạng. Thế nhưng có người về được, có người không...”.

Bây giờ làng Trạng có 38 hộ, 114 nhân khẩu, sống hiu hắt với nhau giữa rừng. Với nhiều người dân làng Trạng, phố thị đông vui của ngày xưa đã là quá khứ ...

* Nỗi niềm người ở lại

Trong chiều nhá nhem tối, anh Pham Văn Mạng ngồi nhìn ra cánh rừng trồng bạch đàn trước cửa nhà. Vợ anh lúi cui với đống củi ngoài vườn, trông thật tất bật. Anh kể: “Trước khi tản cư lên đây, nhà ba mẹ tôi ở ngay cây đa trước cửa cơ quan Thành uỷ Đồng Hới bây giờ, chỗ đó nay chỉ cách cửa chợ Đồng Hới chưa đầy 50m. Mẹ tôi cũng được cấp một mảnh đất ở quê cũ, nhưng rồi phải nhượng lại vì không có tiền để lấy. Đành ở lại với Trạng...”. Bà Tình được cấp đất ở trung tâm Đồng Hới, và cũng như anh Mạng, bà phải bán lại cho người khác. Bà đau đáu một nỗi niềm: “Tui luôn muốn về lại chốn cũ của cha ông, nhưng biết lấy chi mà về? Có lẽ rồi cũng sẽ chết ở đất Trạng này mà thôi”. Bà Tình có bốn người con, đều là công dân của làng Trạng.

Ông Trần Đình An, được cấp một mảnh đất ở phường Hải Đình, không có tiền nộp lệ phí lấy đất nên ông bán cho người ta với giá hơn 5 triệu đồng. Người mua “hảo lòng” đưa ông 6 triệu đồng. Không lâu sau một nửa mảnh đất đó được bán cho người thứ hai với giá 180 triệu đồng. Ông An có hai người con đang sống ở Trạng. Với bà Hà Thị Rớt cũng chẳng may mắn gì hơn anh Mạng, ông An...  trong chuyện nhận đất ở chốn cố hương...

Ông Nguyễn Văn Mục bây giờ đã trở thành một nông dân thực thụ ở làng Trạng. Ảnh: Thiên Hà
Ông Nguyễn Văn Mục bây giờ đã trở thành một nông dân thực thụ ở làng Trạng. Ảnh: Thiên Hà

Ông Mục luôn mang nặng nỗi niềm vọng cố hương như thế. Ông kể: “Trước chiến tranh gia đình tôi có đất ở số 31 Lê Trực, tức là trên đường Mẹ Suốt bây giờ. Theo chính sách cấp đất cho người Đồng Hới gốc về lại quê cũ, tôi được cấp ở phường Hải Đình, nhưng do ở Trạng làm không đủ ăn, con cái lại nhỏ lấy tiền mô nộp phí lấy đất, rồi còn tiền làm nhà nữa?”. Lần lữa mãi nên hết thời hạn nộp tiền lấy đất, ông trả lại đất cho Nhà nước. Mảnh đất cố hương của anh Mạng và ông Mục, theo thời giá bây giờ đáng cả chục tỉ đồng.

Buồn nhất đối với ông Mục - vì ông làm trưởng làng - là đời sống của dân Trạng bây giờ vẫn khổ. “Làng có 38 hộ thì có 8 hộ nghèo, 10 hộ được làm nhà đại đoàn kết...”- ông Mục nói. Sau một lúc ngẫm nghĩ, ông Mục đưa ra con số: 30% hộ làm vườn, 30% hộ trồng cây lâm nghiệp trong đất vườn nhà, hai hộ buôn bán vặt, còn lại sống nhờ rừng từ gánh củi, rổ nấm hay lá nón và tứ tán làm thuê công nhật khắp nơi. Hộ có thu nhập ổn định nhất trong làng là hai hưu trí và một thương binh. “Vậy nên bà con sống tạm bợ tuỳ theo công việc kiếm được trong ngày. Mùa nắng còn kéo nhau đi làm mướn kiếm được đồng vô đồng ra, chớ mùa mưa xuống là lay lắt lắm chú ơi. Muốn làm ruộng kiếm hột lúa ăn cũng chẳng có đất mà mần...”- ông Mục xót xa nói.

Phạm Văn Đức, con trai anh Mạng, mới 15 tuổi đã nghỉ học theo mọi người đi bóc vỏ cây bạch đàn nuôi thân và san bớt gánh nặng cho ba mẹ. Anh Mạng cho biết: “Thu từ cây trái trong vườn một năm được 5-6 triệu đồng mần răng đủ sống? Bản thân tui ai kêu việc chi là mần việc nấy, miễn là không phạm pháp, nếu không chết đói nhăn răng liền”. Nhà bà Tình hiện có bốn người con ở Trạng, nghề nghiệp là đi phụ thợ nề và đi rừng. Bà Tình thổ lộ: “Mơ ước có vốn mua con bò nuôi sinh sản, lấy con bê gầy dần ra cho con cái...”.

Thanh niên trong làng số đi làm thuê, số đi rừng mưu sinh. “Dù biết phạm pháp nhưng vẫn phải đi chớ biết làm chi nữa?”- anh Hoàng Tân Lợi không giấu được nỗi buồn. Anh cho biết là đã học xong nghề lái máy công trình nhưng không xin việc được nên tạm thời đi rừng. Anh nói: “Xin việc cũng phải có tiền đóng cổ phần, tiền bảo đảm này nọ, mà tiền lại không có thì chịu”. Có gần chục thanh niên ở làng đi rừng. Mỗi đợt đi 30-45 ngày mới về một lần. Do nghèo túng nên lương thực, thực phẩm, chi phí cho đi rừng đều vay mượn hoặc “cắm” trước ở các quán. Đi về, nhiều khi trừ chi phí xong chỉ còn lại số tiền... đủ mua đồ cho lần đi tiếp. Không ít lần họ trắng tay, phải đeo nợ vì gỗ đưa về bị kiểm lâm bắt hết...

“Chuyện nghèo khổ kể mấy cũng không hết mô, bây chừ kể chuyện vui thôi”- ông Mục bảo. Té ra chuyện vui của ông Mục là làng Trạng đang được làm một con đường bê tông dài 2km, rộng 2,5m từ đầu làng đến cuối làng. Sau 46 năm lập làng, “Bây giờ làng Trạng đã có một cái gì đó cho nó hiện đại ngang tầm với xã hội chớ, chẳng lẽ lầy lội mãi răng được”- ông Mục thủng thẳng nói.

 

Ông Trần Đình Dinh, Chủ tịch UBND thành phố Đồng Hới: "Trước mắt thành phố và tỉnh đã đầu tư hơn 2 tỉ đồng làm 2km đường bê tông cho bà con ở vùng Trạng. Về lâu dài, thành phố cũng sẽ tiếp tục huy động mọi nguồn lực có được để giúp đỡ bà con trong phát triển kinh tế, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần".
-Ông Mai Xuân Sang, Chủ tịch UBND phường Đồng Sơn: “Đảng uỷ và chính quyền phường cũng rất quan tâm đến tiểu khu Trạng, nhưng phường không đủ tiềm lực để giúp đỡ Trạng trong phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng... Vì vậy, trước mắt bà con phải... tại chỗ đã. Với khả năng của phường, phường đã giao nhiệm vụ cho các đoàn thể, tổ chức hội hỗ trợ bà con phát triển kinh tế bằng trồng rừng, cải tạo cây trồng trong vườn nhà để có thu nhập, các hộ nghèo thì phường đã hoàn thành việc xây dựng nhà đại đoàn kết. Nhìn chung thì Trạng vẫn còn khó khăn, nên sắp tới phường sẽ có kế hoạch giúp đỡ Trạng, thông qua sự quan tâm của chính quyền thành phố và tỉnh, cũng như kêu gọi sự giúp đỡ từ các nguồn lực khác trong xã hội”.

                                                                                                                 Thiên Hà

 

,
.
.
.