.

Chiếu phim lưu động trên đỉnh Trường Sơn

Thứ Năm, 18/07/2013, 07:50 [GMT+7]

(QBĐT) - Hàng chục năm qua, Đội chiếu phim lưu động huyện Minh Hóa thuộc Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng của tỉnh đã không ngại khó khăn gian khổ để mang ánh sáng văn hóa lên vùng cao. Và trong một ngày giữa tháng 7, theo Đội lên chiếu phim lưu động trên đỉnh Trường Sơn, chúng tôi mới thấy được những công việc lặng thầm, khó khăn, vất vả nhưng đầy niềm vui của những người chiến sỹ trên mặt trận văn hóa.

Khiêng phim lên núi

Giữa một ngày tháng 7, tôi cùng với Đội chiếu phim lưu động huyện Minh Hóa lên với đỉnh Trường Sơn. Chiếc xe ô tô bán tải vừa được Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng của tỉnh tăng cường chất đầy máy móc cồng kềnh.

Tôi phân vân hỏi: “Sao lại mang theo máy nổ, xăng dầu, đòn khiêng và dây thừng nhiều thế?”. Anh Đinh Minh Hiệu, Đội trưởng cười vui trả lời: “Lần này, đoàn lên chiếu trên bản Ka Oóc và các bản vùng Lòm, xã Trọng Hóa. Trên đó không có điện nên phải chạy máy nổ.

Một lát sau, chiếc xe chuyển bánh. Trên đường đi, tôi được anh Hiệu cho biết: Đội chiếu phim lưu động của huyện Minh Hóa được thành lập năm 1957. Trước đây, nhiều nơi trong huyện chưa có đường giao thông về trung tâm xã, bản làng nên phải khiêng vác máy rất vất vả. Khổ cực nhất là những chuyến khiêng máy lên vùng Lòm, xã Trọng Hóa. Vì mỗi chuyến đi, đoàn sẽ phải mang theo máy móc cồng kềnh và lương thực. Cuộc hành trình có khi phải mất cả ngày đường mới đến nơi. Mỗi chuyến đi có thể phải kéo dài cả vài tháng trời.

Khiêng phim lên bản Ka Oóc.
Khiêng phim lên bản Ka Oóc.

Khoảng 2 giờ hành trình, chúng tôi đã chạm đất Trọng Hóa và dừng chân tại bản Ra Mai. Nơi đây, đã có hàng chục người dân đứng chờ đoàn và sẵn sàng khiêng máy. Từ bản Ra Mai qua bản Ka Oóc chỉ cách nhau một con nước khe Dọi và một ngọn núi. Nhìn xa xa, bản hiện ra trước mắt cách vị trí chúng tôi đang đứng chừng hơn 1km tính theo đường chim bay. Tại vị trí dừng xe, trưởng bản Hồ Ka gọi những trai bản khỏe mạnh, buộc toàn bộ máy móc sẵn sàng lên đường. Lúc này, mặt trời đã ngả về phía tây nhưng cái nắng biên cương vẫn như thiêu như đốt. Không ai bảo ai, dân bản cứ mỗi người một việc như được phân công trước: gùi, khiêng, vác dụng cụ lên bản.

Từ vị trí xuất phát, chúng tôi phải đổ xuống con dốc vòng quanh ngọn núi chừng 500 mét mới tới khe nước Dọi. Tới bờ khe thì trời bất chợt đổ mưa. Cơn mưa rừng xối xả kéo theo dòng nước đục ngầu từ nước bạn Lào đổ về. Dòng nước hiền hòa ngày nào bỗng nổi lên cuồn cuộn như thách thức anh em trong đoàn. Để vượt qua dòng nước lớn, trưởng bản Hồ Ka cho trai bản khiêng máy móc qua trước. Mưa càng ngày càng nặng hạt nên cả đoàn phải lột hết áo mưa để che chắn cho máy móc khỏi bị ướt. Nước khe lên nhanh, có chỗ sâu ngang ngực người, cả đoàn chúng tôi phải vật lộn với dòng nước hung dữ gần 15 phút mới qua được.

Hết chinh phục khe, đoàn bắt đầu leo núi trong cơn mưa rừng. Chúng tôi men theo con dốc thoai thoải dọc bờ khe Dọi về phía tây chừng 1 cây số, đoàn khiêng máy bắt đầu rẽ phải để leo dốc lên bản. Đoạn đường này không quá 500m nhưng dốc lên thẳng đứng. Con dốc lên bản trời khô ráo đi đã khó, gặp hôm nay trời đổ mưa lại càng thêm trơn trợt. Mấy thanh niên đi trước khiêng máy thỉnh thoảng té ngã vì đạp phải đá trơn. Các thành viên trong đội chiếu bóng cũng không tránh khỏi những tai nạn. Qua con dốc cao đó, đoàn phải đi xuyên qua một cánh rừng nữa mới chạm bản Ka Oóc.

Đến với bản làng, chúng tôi được bà con chào đón như người thân đi xa trở về. Trên các nhà sàn, những cụ già và em nhỏ đều bước ra cửa chào đón khách. Máy thanh niên đi rẫy về muộn chạy đến thay nhau khiêng máy trong sự hân hoan.

Ngày hội của bản làng

Bản Ka Oóc có 40 hộ dân, trên 150 nhân khẩu. Đồng bào ở đây chủ yếu là người Mày và người Khùa, sống dựa vào nương rẫy. Đây chính là bản nghèo và khó khăn nhất của huyện vì chưa có đường, điện và nhiều thứ khác. Vì vậy, năm nào Đội chiếu phim lưu động cũng mang phim lên chiếu phục vụ cho bà con. Gần 7 giờ tối, các khâu chuẩn bị xong xuôi tất cả. Hàng trăm người dân tập trung đến nơi chiếu phim và chọn cho mình một chỗ ngồi thích hợp nhất.

Chờ đợi phim.
Chờ đợi phim.

Đúng 7 giờ tối, tiếng máy nổ vang lên, chiếc bóng điện được bật sáng rực cả một góc bản. Anh Đinh Thanh Bình, tuyên truyền viên của đội thông báo: “Alô! Alô... Kính thưa toàn thể bà con dân bản. Tối hôm nay, Đội chiếu bóng lưu động huyện Minh Hóa sẽ chiếu phục vụ bà con bộ phim "Biệt động Sài Gòn", “Mùa cỏ cháy”, “Phi vụ cuối cùng” và một số phim tài liệu, phim tuyên truyền khác. Rất mong bà con tranh thủ thời gian đúng 8 giờ tối hôm nay tập trung đến xem... Alô! Alô!”.

Chưa đến giờ chiếu phim, Đội đã mở băng hình có một số bài hát ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương đất nước cho bà con xem trước. Sau đó, chiếu tiếp đoạn phim tuyên truyền về công tác chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, phim chống bạo lực gia đình, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới...

Đúng 8 giờ tối, bộ phim “Biệt động Sài Gòn” bắt đầu trình chiếu. Hàng trăm khán giả ngồi lặng im như nín thở, họ hướng mắt về phía màn ảnh rộng. Với người dân Ka Oóc, được xem phim là một món quà lớn mà Đội chiếu bóng đã mang đến. Bởi mỗi năm một lần, một lần không quá hai đêm họ được xem phim. Và hàng trăm người dân của bản nghèo này xem dịp chiếu phim như một ngày hội thực sự của bản làng. Thậm chí họ cảm thấy vui hơn Tết. Già làng Hồ Ka phấn khởi: “Cán bộ thấy bản miềng vui không? Cả năm mới thấy ánh điện, mới được xem phim. Chiều hôm nay, ai cũng đi làm rẫy về sớm, cơm nước xong là cả bản tập trung lại đây rồi”.

Khi phim “Biệt động Sài Gòn” chiếu xong, mọi người đều trầm trồ khen ngợi nhiều người xem không ngớt lời bình phẩm. Hơn 9 giờ đêm, bản làng vẫn vui như trẩy hội. Nét mặt ai cũng phấn khởi, hứng thú. Không để bà con chờ lâu, anh Hiệu lại chiếu tiếp bộ phim “Mùi cỏ cháy”. Bộ phim nói về bốn chàng sinh viên tài hoa viết đơn tình nguyện vào chiến trường miền Nam năm 1971. Họ bỏ lại cuộc sống hòa bình vào miền Nam để quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Bộ phim có những chi tiết rất thơ, rất lãng mạn khiến người xem, xúc động.

Xem xong bộ phim, Trưởng bản Hồ Ka xúc động: “Phim đã làm cho miềng nhớ lại thời trai trẻ. Ngày xưa, miềng cũng để lại bản làng để tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ đó”. Em Hồ Thị Cúc, một học sinh nói: “Nhờ xem phim mà em yêu hơn môn học Lịch sử, hiểu được quá trình đấu tranh giữ nước của cha anh đi trước cho chúng em được sống bình yên ngày hôm nay”.

Gần 11 giờ đêm, phim đã chiếu xong, anh em trong đội thông báo tạm dừng nhưng nhiều bà con cứ ở lại năn nỉ đòi xem tiếp. Chiều lòng bà con, đội chiếu thêm bộ phim truyện nhựa “Phi vụ cuối cùng”, đến gần 12 giờ đêm mọi người mới chịu về. Khi đồng hồ đã chuyển qua ngày mới, công việc thu dọn hậu trường của đội mới được tiến hành. Gần 30 phút sau, bản làng dường như đã chìm trong giấc ngủ tĩnh mịch giữa núi rừng cũng là lúc công việc của đội mới hoàn thành.

Anh Đinh Minh Hiệu tâm sự: “Mệt thì mệt thật, nhưng rất vui. Chúng tôi lên đây được bà con quý, ở bà con thương, đi bà con nhớ. Sự có có mặt đông đủ của đồng bào chính là niềm động viên lớn nhất để cả đội hoàn thành công việc”. Sáng hôm sau, Trưởng bản Hồ Ka dậy thật sớm làm món cơm Pồi chấm mật ong chiêu đãi khách. Món cơm Pồi dẻo thơm cùng vị ngọt của mật ong rừng khiến ai cũng ăn ngon lành rồi nhớ mãi. Đoàn khiêng máy rời bản để đến một nơi khác, phía sau là những ánh mắt dõi nhìn theo, những cái vẫy tay chào tạm biệt của bà con dần khuất sau rặng núi.

                                                                        Xuân Vương