.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xây dựng văn hóa

Thứ Hai, 15/09/2014, 15:15 [GMT+7]

Tiếp tục quan điểm “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”(1) được nêu tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) lại một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế cả về lý luận và thực tiễn. Để có thể giải quyết đúng và trúng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, chúng ta nhất thiết phải nắm vững và vận dụng triệt để tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế.

Biện chứng trong tư duy Hồ Chí Minh là sự gắn bó không tách rời giữa kinh tế và văn hóa, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Tư tưởng về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, đó chính là tư tưởng “phát triển kinh tế hài hoà với xây dựng văn hóa ".

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy vị trí đặc biệt và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.

Từ năm 1943, trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(2). Định nghĩa của Hồ Chí Minh khẳng định lý do tồn tại và phát triển của văn hóa “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, nhấn mạnh đặc trưng quan trọng nhất của văn hoá là “sáng tạo và phát minh”, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực, loại hình chính của văn hóa với ý nghĩa rộng lớn của nó. Đây là một quan niệm mang đầy tính nhân văn của Người.

Trong định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng khi Người coi văn hóa là sự tổng hợp các giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra. Định nghĩa này đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự khi văn hóa đã thực sự trở thành nghành công nghiệp có tiềm năng và sức mạnh to lớn. Sức sản xuất văn hóa được giải phóng kết hợp với kinh tế, công nghệ hiện đại. Sản xuất văn hóa nghệ thuật trở thành một bộ phận quan trọng của sản xuất hiện đại, trở thành điểm tăng trưởng mới của phát triển kinh tế quốc dân.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ các giá trị văn hóa thẩm thấu vào mỗi con người và từ đó, con người thông qua hoạt động của mình phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ khi mới thành lập nước, Người đã cho xuất bản tác phẩm Đời sống mới hướng dẫn cụ thể việc ăn, ở, việc thiện, việc nghĩa, ma chay, giỗ chạp, may mặc theo lối sống mới, cải tạo các hủ tục trong xã hội; nhấn mạnh nhiệm vụ thực hiện đường lối chính trị theo đặc thù của mỗi lĩnh vực, tác động vào đời sống kinh tế, vì lợi ích của nhân dân: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tác phẩm Đời sống mới một lần nữa làm rõ quan điểm "văn hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân", văn hóa phải đi sâu vào tâm lý nhân dân, gắn bó với thực tiễn cuộc sống của nhân dân.

Nhận thức được những hạn chế của tư duy lạc hậu về văn hóa, kìm hãm sự phát triển con người, Người cho rằng, nhiệm vụ thay đổi trình độ người trước hết phải bắt đầu từ xây dựng và thực hiện đời sống mới. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ rằng, tăng cường xây dựng văn hoá chính là để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là phát triển kinh tế. Việc xây dựng kinh tế phát triển đất nước trông chờ rất lớn vào việc xây dựng văn hóa nhằm tạo ra động lực tinh thần lớn mạnh. Với quan niệm xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(3). Đây chính là phương châm trồng người xuất phát từ bản chất nhân văn của văn hóa. Ý thức về tư tưởng tiên tiến, nhân cách và lối sống của con người là nội dung quan trọng của các quan hệ văn hóa, là động lực để phát triển kinh tế, Người không chấp nhận một nền văn hóa mà ở đó sự phát triển kinh tế hay nhân danh phát triển xã hội để nô dịch con người, hoặc tạo ra hiện tượng phản giá trị trên bình diện nhân cách. Nội dung xã hội chủ nghĩa của văn hóa phải bao hàm vấn đề con người được giải phóng về nhân cách, được phát triển tự do toàn diện, và lối sống của xã hội mới phải là lối sống tạo ra sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng. Cộng đồng là cơ sở, là nền tảng giải phóng các năng lực cá nhân và ngược lại, cá nhân phải có trách nhiệm với cộng đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(4). Theo đó, dân chủ là một phạm trù đặc biệt quan trọng trong tầm nhìn chiến lược Hồ Chí Minh về phát triển toàn diện con người và xã hội. Văn hóa chân chính phải có tác dụng góp phần phát triển giá trị nhân cách của con người, hướng con người tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Vì vậy, Người yêu cầu cần phải “ xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”(5). Vai trò của văn hóa đối với việc xây dựng con người là ở chỗ văn hóa có công năng bồi đắp, rèn luyện, tạo nên những con người phát triển toàn diện, hài hòa, vừa có trí tuệ sáng suốt, vừa có phẩm chất, lý tưởng tình cảm cao đẹp.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế. Việc xây dựng xã hội dân chủ, giàu mạnh, văn minh đòi hỏi phải xây dựng kinh tế là trung tâm, không ngừng giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội. Về nguyên lý, kinh tế là yếu tố quyết định tính chất và diện mạo của văn hóa, kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện vật chất và nguồn sống cho phát triển văn hóa, nhưng phát triển kinh tế chưa bao giờ tách rời khỏi sự nâng đỡ của văn hóa; văn hóa tuyệt đối không phải là vật phát sinh hoặc thứ yếu phụ thuộc một cách tiêu cực vào kinh tế mà trái lại, văn hóa có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế. Vì thế tăng cường xây dựng văn hóa là nhiệm vụ tất yếu để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là phát triển kinh tế, nhằm xây dựng một xã hội giàu có, văn minh. “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”(6). Kinh tế có vai trò mang tính quyết định nên văn hóa không bao giờ tách rời kinh tế, vẫn bị chi phối bởi yếu tố kinh tế. Từ cách nhìn nhận biện chứng về kinh tế và văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng, phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội”(7). Kinh tế chính là cơ sở, điều kiện cho sự hình thành và phát triển văn hóa: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Phải phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(8). Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa chính là mấu chốt của chiến lược phát triển bền vững.

Một vấn đề hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta phải nhận thức thấu triệt là văn hóa góp phần xây dựng và phát triển kinh tế. Trong gần 30 năm tiến hành đổi mới đất nước, kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, đời sống của 90 triệu người dân đã được cải thiện một cách căn bản. Tuy nhiên, so với các quốc gia phát triển, mức sống của người dân hiện nay vẫn còn thấp và chưa đồng đều. Vì thế, để nâng cao hơn nữa mức sống của nhân dân đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu gian khổ trong một thời gian dài. Đến nay, chúng ta đã bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng để nâng cao hơn nữa năng lực của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu thì Việt Nam cần phải hoàn thiện từng bước và hoàn thiện một cách hợp lý. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời đại kinh tế tri thức đòi hỏi phải có một động lực tinh thần mạnh mẽ. Động lực ấy, trước hết cần phải tìm thấy ở văn hóa. Đây chính là điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: văn hoá chính là lĩnh vực có khả năng huy động và tạo ra động lực tinh thần lớn mạnh cho xây dựng kinh tế và phát triển xã hội.

Nền kinh tế thị trường, ở khía cạnh tích cực nhất của nó, có khả năng thay đổi lối sống, tạo nên tác phong công nghiệp, cung ứng một khối lượng vật chất dồi dào, tạo nên sự khởi sắc trong đời sống của nhân dân, nhưng mặt khác, cũng tạo nên nhiều hệ lụy nhức nhối, tiêu cực. Vì thế kinh tế thị trường càng phát triển thì càng phải xây dựng nền văn hóa phong phú, cao đẹp để nhân dân đồng tâm hợp lực xây dựng đất nước. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hài hòa trước hết là nói về mối tương tác, thúc đẩy lẫn nhau giữa kinh tế và văn hóa, sau nữa, là nhân tố tạo nên phát triển bền vững, làm cho đất nước giàu có, thái bình, nhân dân được hạnh phúc.

Theo Hồ Chí Minh, kinh tế không độc lập với văn hóa mà kinh tế cũng chính là một lĩnh vực của văn hóa. Ngay từ năm 1943, sau khi định nghĩa về văn hóa, Người còn chỉ rõ: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc: 1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình làm lợi cho quần chúng; 3- Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4- Xây dựng chính trị: dân quyền; 5- Xây dựng kinh tế”(9).

Quan điểm này thể hiện tầm chiến lược thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xác định những tiêu chí cơ bản nhằm định hướng cho nền văn hóa Việt Nam trong tương lai. Theo nghĩa hẹp, văn hóa là một lĩnh vực riêng trong tương quan với các lĩnh vực khác, chẳng hạn văn hóa khác với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Nhưng theo nghĩa rộng, văn hóa chính là nhân hóa hoạt động của con người, đánh dấu sự vượt lên của con người đối với trạng thái tự nhiên. Theo cách hiểu này, tất cả mọi hoạt động của con người đều là hoạt động văn hóa, kể cả các hoạt động kinh tế, chính trị. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách toàn diện bản chất của văn hóa, coi văn hóa là một loại hoạt động thông qua việc tạo dựng tâm hồn mà tác động tới toàn bộ thế giới loài người. Sức ảnh hưởng của văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động của con người. Theo đó, văn hóa trong phát triển chỉnh thể xã hội - kinh tế được gọi là thực lực mềm hay “lực nâng đỡ” và “ lực hội tụ” . Cũng vì thế người ta có thể nói “ người trong văn hóa” và “văn hóa trong hoạt động của con người”, từ đó, lấy quan điểm văn hóa để quan sát, lý giải tất cả các hoạt động của con người.

4. Quan điểm Hồ Chí Minh về sức mạnh nội sinh của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, văn hóa không chỉ là động lực của phát triển kinh tế, xã hội mà còn là động lực phát triển đối với một quốc gia, dân tộc. Người chỉ rõ sức mạnh nội sinh của văn hóa: “Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm sao cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu được nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mình nên hưởng... Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(10).

Sau gần 30 năm đổi mới, một mặt, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã thu được nhiều thành tựu khả quan, tạo tiền đề để từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, mặt khác, nền kinh tế thị trường ấy vẫn chưa hoàn thiện, chưa được quản lý có hệ thống, vai trò điều tiết của Nhà nước chưa được tổ chức chặt chẽ, lợi ích kinh tế cá nhân chưa được đặt trong tương quan mật thiết với lợi ích kinh tế cộng đồng. Đây cũng là lúc mặt trái của kinh tế thị trường nhanh chóng bộc lộ, dẫn tới những hậu quả đáng tiếc, thậm chí có lúc gây ra tổn thất nghiêm trọng đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Một xã hội nếu chỉ chạy theo nhu cầu vật chất, coi thường đạo đức, nạn tham ô, hối lộ hoành hành tất sẽ làm băng hoại đạo đức và các giá trị tinh thần của xã hội. Trong điều kiện ấy, chắc chắn phát triển kinh tế sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cần khắc phục.

Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải tiến hành song song với việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người. Rõ ràng, muốn tạo nên một đất nước cường thịnh, nhất thiết phải quán triệt tư tưởng: văn hóa là động lực phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đất nước tạo thành sự phát triển bền vững. Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng và thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong các văn kiện của Đại hội lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết về văn hóa được ban hành sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ chín.

Trong giai đoạn cách mạng mới, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của văn hóa đối với công cuộc phát triển đất nước. Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói đến trình độ phát triển con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không thể tách rời của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao trên của văn hóa: “Chúng ta phải biến một nước dốt nát cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống vui tươi, hạnh phúc”(11). Phát biểu trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra ngay khi đất nước vừa kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, theo chiều dọc, để nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp đổi mới đất nước từ xuất phát điểm là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trong bối cảnh nhiều quốc gia đã ở vào thời kỳ hậu công nghiệp, xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức, chúng ta phải trải qua các giai đoạn mà các quốc gia khác đã từng trải qua: giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác, xét theo chiều ngang, chúng ta phải bắt nhịp với thế giới, tương ứng với sự phát triển kinh tế là sự phát triển văn hoá - xã hội là yêu cầu về hiểu biết thực tế, hiểu biết lý luận, ý thức, học vấn và nhân cách của con người... Đây chính là quá trình “rượt đuổi kép”. Hơn nữa, thời đại ngày nay là thời đại của tin học, của kinh tế tri thức, trong đó khâu sản xuất chủ yếu sẽ là trí tuệ (trí tuệ được hiểu là lực lượng sản xuất).

Vì thế, muốn phát triển, không thể không coi phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật là quốc sách hàng đầu. Đó là sứ mạng, là trách nhiệm nặng nề của văn hóa trong phát triển. Văn hóa và dân trí không dành cho một lớp người mà phải là của quảng đại quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi rất cao đối với chất lượng của hoạt động văn hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người, nhận thức, tiếp nhận, thụ hưởng văn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa.

Người nhắc nhở “Phong trào văn hóa - có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng”(12). Hiện nay, điều quan trọng là chúng ta phải giải quyết tốt áp lực dân số và chuyển hoá áp lực việc làm thành thế mạnh tài nguyên nhân lực to lớn liên quan đến vấn đề phát triển văn hóa để nâng cao dân trí theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người yêu cầu: “ Kế hoạch giáo dục phải gắn liền với kế hoạch kinh tế. Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được. Nền kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển được”(13). Làm thế nào để có nguồn nhân lực chất lượng cao tạo ra sự đột phá cho phát triển kinh tế, tăng cường đào tạo nghề, không ngừng nâng cao tố chất người lao động là vấn đề đặt ra gay gắt, và tăng cường xây dựng văn hoá, nâng cao chất lượng giáo dục chính là một trong những phương cách quan trọng để giải quyết khó khăn này. Cùng với việc khai thác mạnh mẽ tiềm năng của mọi vùng kinh tế của đất nước nhằm thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển thì việc đào tạo và sử dụng có hiệu quả nhân tố con người là một khâu quan trọng trong đó đáng chú ý là cố gắng đào tạo đội ngũ tại chỗ.

Phát triển văn hoá phải hài hòa với phát triển kinh tế, phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và chính mình, biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

Có thể khẳng định, những tư tưởng lớn, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng, hài hoà giữa văn hóa và kinh tế vừa là những tư tưởng mang tính chỉ đạo lâu dài, đồng thời giúp chúng ta giải quyết những vấn đề của thực tiễn đổi mới một cách thuyết phục. Vì thế, nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng của Người về các lĩnh vực khác nhau để tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước vẫn là một nhiệm vụ quan trọng cần được tiếp tục trong tương lai.

----------------------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 124

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 431

(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr. 10, tr. 310

(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 8, tr. 381-282

(5) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 8, tr. 381-382

(6) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997, tr. 320

(7) Báo Cứu quốc, ngày 8-10-1945

(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 59

(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 431

(10) Báo Cứu quốc, ngày 8-10-1945

(11) Hồ Chí Minh: Sđd, t.8, tr. 494

(12) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984, tr. 400

(13) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 8, tr. 137-138, 281-282

Theo PGS, TS. Mai Hải Oanh
Tạp chí Cộng sản