.

Tà Vờng - Điểm đến mai này

Thứ Bảy, 07/09/2013, 08:16 [GMT+7]
Bản Tà Vờng nhìn từ trên cao xuống.
Bản Tà Vờng nhìn từ trên cao xuống.

(QBĐT) - Theo kế hoạch của dự án Bảo tồn thiên nhiên và quản lý bền vững nguồn tài nguyên Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng về sinh kế bền vững cho đồng bào vùng đệm Vườn quốc gia, thì bản Tà Vờng là điểm được chọn để phát triển mô hình du lịch cộng đồng.

Ấn tượng Tà Vờng

Lên Tà Vờng vào những ngày đầu của mùa mưa lũ, cơn mưa đầu mùa dù không lớn nhưng dai dẳng, kéo dài khiến chúng tôi không khỏi bồi hồi lo lắng. Con đường từ quốc lộ 12A vào đến bản Tà Vờng dài gần 30 cây số, lại bị chia cắt bởi 5 cái ngầm của các con suối nhỏ, nên nếu trời mưa thì nguy cơ không qua được suối là rất lớn.

Chiếc xe hai cầu của Ban quản lý dự án Bảo tồn thiên nhiên và quản lý bền vững nguồn tài nguyên Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng như chú ngựa chiến chỉ chực chồm lên những dòng suối lổm nhổm đá, cung đường vào với bản Tà Vờng có thể nói là không thua kém gì các cung đường vùng miền núi Tây Bắc nước ta. Những con dốc quanh co cứ men theo vách núi cheo leo, lúc lên cao, lúc lại đổ nhào xuống, một bên là vách núi, bên kia là vực sâu hút mắt, nếu không quen đi xe thì chỉ nhìn thôi cũng đã chóng mặt.

Bản Tà Vờng là một trong ba bản thuộc vùng Lòm của xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa, nằm dọc theo đường biên giới với nước bạn Lào. Từ trên đỉnh đèo nhìn xuống bản nhỏ, mấy chục nóc nhà sàn như những nốt nhạc được viết lên khung nhạc của núi rừng hùng vĩ mờ trong làn mưa. Vốn trước kia bản Tà Vờng ở cách địa điểm hiện tại hơn 2 km phía sâu trong núi, bên kia con suối Tà Leng.

Do địa hình dốc, đến mùa mưa lũ đất bị xói lở, gây nguy hiểm cho bà con. Nhận thấy những hiểm họa có thể đổ xuống bản bất cứ lúc nào, chính quyền và Bộ đội Biên phòng đã vận động bà con dân bản di chuyển khỏi vùng sạt lở nguy hiểm để về xây dựng bản mới trên một ngọn đồi nhỏ nằm sát bên bản Dộ. Những ngôi nhà sàn mới vững chắc, khang trang được xây dựng từ chương trình "Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo" được khánh thành vào đầu năm 2012.

Đón chúng tôi dưới cơn mưa đầu mùa bằng cái bắt tay và nụ cười xởi lởi, Trưởng bản Hồ Khiên không giấu được cảm xúc “Mừng quá, mưa thế này mà mọi người vẫn lên được, mình cứ tưởng nước ở mấy cái ngầm kia sẽ làm nản lòng người dưới xuôi rồi, nếu mà như vậy thì buồn lắm”. Ấn tượng đầu tiên của chúng tôi khi đặt chân lên Tà Vờng là bản rất sạch, có lẽ một phần cũng do tập quán định cư ở những triền núi cao và đầu các con nước. Bà con dân bản hồn hậu đón chúng tôi bằng những nụ cười, bọn trẻ con nhút nhát nhưng vẫn tò mò đứng núp sau cánh cửa dò xét.

Bản Tà Vờng mới hiện tại có 25 hộ, với 136 khẩu. Chủ yếu là thuộc tộc người Mã Liềng và Mày của dân tộc Chứt.  Đón chúng tôi còn có già làng Hồ Xếp. Năm nay Hồ Xếp đã 87 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn và khỏe mạnh. Ông sinh được 7 người con thì có 6 người là trai. Trưởng bản Hồ Khiên là con trưởng của ông, Hồ Khiên cũng sinh được 5 người con, tất cả con cháu của Hồ Xếp đều đang ở trong bản.

Dẫn chúng tôi đi quanh bản giới thiệu qua về cuộc sống của bà con, Hồ Khiên cho biết: “Hiện cả bản đang dùng chung nguồn nước được lấy ở thượng nguồn một con suối phía sau núi về tận trung tâm bản. Tuy vậy, do hệ thống ống dẫn nước nhỏ nên nhiều khi không tải đủ lượng nước cho dân bản dùng, có những lúc ống dẫn bị vỡ hoặc lá cây làm tắc, nước không về được bể chứa, bà con phải gánh nước ở tận khe suối xa về, vì suối Tà Leng có nguồn ở tận phía Lào khi mưa nước cuốn theo phù sa đục ngầu không thể dùng được, trai tráng trong bản phải luân phiên thay nhau đi sửa ống nước mỗi khi mất nước”.

Hồ Khiên cho biết thêm “Từ lúc chuyển đến bản mới, trẻ em trong bản không còn phải bỏ học vào những ngày nước lớn nữa, đã có một điểm trường tiểu học của xã Trọng Hóa đóng tại bản Dộ, ngay sát chân đồi. Trường có 6 lớp từ lớp 1 đến lớp 5, bình quân mỗi lớp có sỹ số 15 em. Ngay tại bản Tà Vờng cũng có một lớp mẫu giáo cho trẻ con trong bản đến học".

Mâm cơm của người Tà Vờng được đan rất đẹp.
Mâm cơm của người Tà Vờng được đan rất đẹp.

Tà Vờng cũng là một trong số ít bản còn lại của xã Trọng Hóa chưa có điện lưới, mấy năm trước nghe cán bộ xã nói sẽ có dự án điện năng lượng mặt trời nhưng bà con chờ đã hai mùa rẫy rồi mà vẫn chưa thấy.

Vì là nhà trưởng bản và cũng là để đón khách nên tối đó Hồ Khiên mới dám lấy “điện nhà mình” ra dùng. Nói là “điện” nhưng thực chất là lấy mấy viên pin xếp lại với nhau trong cái ống nứa đủ để cho một bóng đèn loại bé xíu sáng mờ mờ. Còn những ngày khác thì cả bản phải ăn cơm chiều và sinh hoạt trong bóng tối mờ sương của núi rừng. Ở Tà Vờng vẫn còn tập tục đối với người phụ nữ khi đẻ phải ở một mình trong căn lều bên bờ suối do người thân dựng cho, đến khi đủ sức khoẻ tự bế con mới được về nhà.

Tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng

Trưa hôm đầu tiên tại nhà trưởng bản, bữa trưa do bà Hồ Thị Păng vợ Hồ Khiên chuẩn bị gồm những thứ như hoa chuối rừng, cá khe, đĩa rau rừng luộc, cơm Pồi. Tất cả  được dọn ra trên chiếc mâm đan bằng mây tre tinh xảo, mẫu mã rất đẹp.

Anh Đinh Tiến Dũng cán bộ văn hóa xã Trọng Hóa cho biết thêm: Do bản mới chuyển về đây nên đất canh tác không có. Bà con được vận động không còn phá rừng nữa mà chỉ canh tác trên những phần đất nương rẫy cũ, tập quán phát – đốt – cốt – trỉa từ ngàn đời nay vẫn chưa thay đổi, ở đây bà con chỉ làm được lúa nương năng suất thấp, xen với các vụ sắn, ngô, khoai. Thời gian đầu Nhà nước đang hỗ trợ một người 15kg gạo mỗi tháng trong 5 năm đầu để giúp ổn định cuộc sống.

Vừa ăn vừa trò chuyện, trong men nồng của chén rượu, có lúc già làng Hồ Xếp trầm ngâm... chỉ về ngọn núi cao phía bên kia con suối Tà Leng bồi hồi nhớ lại: "Trước kia, cả bản sống ở đó, dốc lắm, đi lại rất khó khăn. Mỗi khi có mưa lũ là ăn không ngon, ngủ không yên, thấp thỏm lo nhà mình có thể bị sạt bất cứ lúc nào, trẻ con cũng không thể đi học được. Còn bây giờ thì mình vui lắm, cán bộ dự án mà hướng dẫn và giúp bà con bản làm du lịch để phát triển kinh tế nữa thì yên tâm rồi”.

Buổi chiều cả đoàn chúng tôi tranh thủ khảo sát xung quanh bản và bản Dộ lân cận, tìm hiểu thêm những nét văn hóa còn bảo tồn, những lễ hội, tập tục sinh hoạt của bà con dân bản. Người Mã Liềng và người Mày ở Tà Vờng vẫn giữ được những lễ hội như: lễ cúng Giang Sơn, lễ Buộc chỉ cổ tay, lễ cúng Cơm mới... Trời chiều đã tạnh mưa, những làn mây nhẹ lững thững lưng chừng núi, bồng bềnh len lỏi dưới mái nhà sàn, khiến cho khung cảnh càng trở nên thơ mộng khó tả. Tôi như bị “say” cái vẻ đẹp mộc mạc mà thuần khiết nơi đây...

Bản nhỏ sau cơn mưa.
Bản nhỏ sau cơn mưa.

Buổi sáng hôm sau, tôi bị thức giấc bởi tiếng cối đâm Pồi, âm thanh đó phát ra từ tất cả 25 ngôi nhà trong bản tạo thành một bản nhạc trầm bổng. Pồi là món ăn chính trong bữa ăn của dân bản, những người phụ nữ dậy rất sớm làm món Pồi cho cả nhà ăn sáng, trẻ con tay cầm miếng Pồi thủng thẳng vừa đi vừa ăn để xuống núi đến trường. Tôi phát hiện ra cái bể nước giữa bản là không gian sinh hoạt chung của mọi người mỗi sớm, cả đoàn chúng tôi cũng tranh thủ dậy ra bể nước hòa vào một ngày mới với bà con.

Sau bữa sáng tự túc cả đoàn tiếp tục khảo sát những điểm ngắm cảnh dọc theo dòng suối Tà Leng. Với rất nhiều các bậc thác nhỏ, những bãi đá lổm nhổm, uốn khúc mềm mại càng làm cho con suối Tà Leng thêm quyến rủ và thơ mộng. Hai bên những vạt cỏ xanh non, những bụi hoa sim tím, hoa mua đất, và cả những loài hoa dại tôi chẳng biết tên gọi, lần lượt được ánh nắng ban mai đánh thức, làm sáng bừng sức sống. Sương sớm chưa tan còn long lanh trên cành lá, tiếng mõ trâu lọc cọc theo mỗi nhịp chân chúng bước...  Chúng tôi leo lên những ngọn đồi cao hơn, thu gọn bản nhỏ trong tầm mắt.  Đứng trên đỉnh đồi tự huyễn hoặc với bản thân, thiên nhiên và con người sao khéo hòa hợp.

Theo kế hoạch của dự án Bảo tồn thiên nhiên và quản lý bền vững nguồn tài nguyên Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng về sinh kế bền vững cho đồng bào vùng đệm Vườn quốc gia, thì bản Tà Vờng là điểm được chọn để phát triển mô hình du lịch cộng đồng. Trước mắt, trong giai đoạn khởi động nhằm điều tra, khảo sát về phong tục, tập quán, văn hóa bản địa, 3 hộ gia đình trong bản sẽ được chọn làm nơi lưu trú cho du khách.

Anh Đinh Tiến Dũng, cán bộ văn hóa xã Trọng Hóa cho rằng: Tà Vờng là bản nghèo, thuộc khu vực đặc biệt khó khăn của xã, chính quyền địa phương thực sự mong muốn cải thiện được đời sống cho bà con thông qua hoạt động du lịch cộng đồng.

Còn anh Hồ Phum, phụ trách an ninh bản cũng tự tin phát biểu trong buổi hội ý cuối cùng: “Mình biết bản thân cũng như bà con trong bản còn nhiều hạn chế, nhưng rất mong được cán bộ dự án và các nhà làm du lịch đào tạo, bày vẽ thêm mọi người sẽ cố gắng học hỏi những cách thức để sau này triển khai công tác đón tiếp cũng như phục vụ du khách chu đáo và tốt hơn”. Chúng tôi rất tin vào Hồ Phum, anh tiếp thu khá nhanh những hướng dẫn. Với vai trò là người thuyết minh tổng thể về bản làng cho du khách, dẫn du khách tham quan khám phá những nét văn hóa khác biệt, những bậc thác đẹp trên con suối Tà Leng... chiều hôm chúng tôi đến Hồ Phum đã “hóa thân” là một thuyết minh viên của bản theo sự hướng dẫn của cán bộ dự án rất tự tin.

Đầu giờ chiều chúng tôi rời bản để về xuôi, mang theo ấn tượng về một bản biên giới xa xôi với bao niềm hy vọng. Nếu dự án thành công, không chỉ đời sống đồng bào dân tộc nơi đây sẽ thoát khỏi đói nghèo mà với những nét độc đáo hoang sơ của mình, Tà Vờng sẽ trở thành một điểm du lịch đặc sắc-nét chấm phá khó quên trong hành trình khám phá Quảng Bình của du khách.

Xuân Hoàng