.

Cơ chế - Chìa khóa thúc đẩy sáng chế, sáng tạo

Thứ Năm, 22/09/2016, 14:50 [GMT+7]

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đổi mới cơ chế thực thi hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, đổi mới hệ thống sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia được nêu trong Nghị quyết 19.

 Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao đổi với các DN đến giao dịch tại Cục Sở hữu trí tuệ. Ảnh: VGP/Đình Nam
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao đổi với các DN đến giao dịch tại Cục Sở hữu trí tuệ. Ảnh: VGP/Đình Nam

Báo cáo với Phó Thủ tướng tại cuộc làm việc sáng 21/9, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Trần Việt Thanh cho biết các cam kết về sở hữu trí tuệ (SHTT) là yếu tố quan trọng trong quá trình đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Tuy nhiên, việc xây dựng cơ chế chính sách về SHTT vẫn chưa theo kịp nhu cầu xã hội, áp dụng khó khăn, làm ảnh hưởng đến chính sách bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam.

Hiện nay, mỗi năm Cục SHTT tiếp nhận gần 100.000 đơn các loại, xử lý được gần 80.000 đơn dẫn đến tình trạng tồn đọng hơn 40.000 đơn sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu quốc gia.

Trả lời câu hỏi của Phó Thủ tướng, một chuyên viên Phòng Sáng chế 2 (Cục SHTT) cho biết mỗi tháng xử lý được khoảng 5 hồ sơ xin cấp bằng sáng chế và cần tới 40 tháng để xử lý xong 200 hồ sơ hiện có. Trong khi đó chi phí để thẩm định một hồ sơ cấp bằng sáng chế dày hàng trăm trang là khoảng 3 triệu đồng. Mức phí như vậy rất khó để thuê DN bên ngoài tham gia vào công đoạn thẩm định sơ bộ nội dung một hồ sơ xin cấp bằng sáng chế, từ đó, dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian chờ đợi của DN.

Tương tự, do không có kinh phí nên phòng lưu trữ dữ liệu của Cục SHTT lạc hậu, không được đầu tư đầy đủ, bài bản và chưa đáp ứng được yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thẩm định, đăng ký quyền SHTT, cung cấp dịch vụ công trực tuyến...

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh lo ngại với thực trạng như vậy dù có thêm thời gian chuẩn bị thì việc thực thi các cam kết về quyền SHTT trong các FTA sẽ gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.

Đồng tình với quan điểm này, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng số lượng bằng sáng chế, bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam đã ít, thời gian thẩm định lại kéo dài.

“Nhiều DN phản ánh thủ tục tương đối rõ ràng nhưng thời gian chờ đợi quá lâu. Để cải thiện tình trạng này trong nhiều việc cần làm thì nhất định phải giảm thời gian thẩm định, cấp bằng sáng chế, bảo hộ quyền SHTT”.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam traođổi với lãnh đạo Bộ KH&CN tại Phòng Sáng chế 2, Cục SHTT. Ảnh: VGP/Đình Nam
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao đổi với lãnh đạo Bộ KH&CN tại Phòng Sáng chế 2, Cục SHTT. Ảnh: VGP/Đình Nam

Phó Thủ tướng đặt vấn đề: Phải đổi mới cơ chế tài chính, tăng mức phí để thu hút DN tham gia vào một số bước trong thủ tục thẩm định hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cấp bằng sáng chế, quyền SHTT cho DN, người dân.

“Ngoài đội ngũ thẩm định viên của Cục thì rất nhiều người có trình độ tương đương đang làm việc trong các DN bên ngoài. Một hồ sơ thẩm định dày hàng trăm trang có thể thuê DN đọc và tóm tắt lại hồ sơ, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đó, trước khi chuyển cho thẩm định viên. Còn xây dựng cơ sở dữ liệu về SHTT thì hoàn toàn có thể nêu đầu bài và thuê dịch vụ của DN công nghệ thông tin”, Phó Thủ tướng gợi ý và nhấn mạnh: Muốn làm vậy Cục SHTT phải mạnh dạn nghiên cứu, đề xuất đổi mới cơ chế tài chính, đẩy mạnh tự chủ.

“Suy cho cùng mong muốn của DN là tốn ít thời gian nhất cho việc thực hiện các thủ tục liên quan đến bảo hộ quyền SHTT chứ chưa hẳn là chi phí. Chúng ta đang ở vị trí trung bình thì phải cố gắng nhiều hơn nữa để là một trong những nước ASEAN có thời gian thẩm định cấp bằng sáng chế, quyền SHTT ngắn nhất”, Phó Thủ tướng nói.

Đối với việc mô hình đổi mới sáng tạo quốc gia, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá dù tích cực thực hiện nhưng những kết quả đạt được của Bộ KH&CN  mới là bước đầu, còn rất khiêm tốn.

Trong thời gian tới, Bộ KH&CN cần đẩy nhanh việc công khai minh bạch toàn bộ quy trình quản lý KHCN từ đề tài nghiên cứu cơ bản trở đi để mọi người dân, DN, nhà khoa học cùng giám sát; xây dựng cơ chế đặt hàng, giao đề tài trong trường ĐH, hỗ trợ DN khởi nghiệp; khuyến khích, tạo nhu cầu tự thân của từng DN đầu tư cho nghiên cứu, phát triển KHCN.

Theo Đình Nam (Chinhphu.vn)