.
Kỷ niệm 68 năm ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (19-12-1946 - 19-12-2014):

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: Áng hùng văn thời đại

Thứ Sáu, 19/12/2014, 10:58 [GMT+7]

"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài chín năm kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.

Lúc đó, nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam.

Sau đó, Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp tạm ước 14-9-1946. Ngày 16-9-1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10, Người gặp Đácgiăngliơ ở Vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.

Trước tình hình đó, ngày 18, 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Nội), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.

Từ ngày 3 đến 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Nội) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép, Người viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

20 giờ ngày 19 tháng 12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20 tháng 12 tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội), đài Tiếng nói Việt Nam phát đi "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Như vậy là mặc dù chúng ta tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là độc lập tự do hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy, có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.

"Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Trong lời kêu gọi ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở hai chữ “toàn dân”.

Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có  một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân:

“Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.

Kết thúc lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.

Lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh chín năm sau đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ba mươi năm sau, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm lá cờ lên nóc dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, đem lại độc lập thống nhất cho đất nước.

"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Hịch cứu nước của Tổ quốc, là một áng hùng văn sáng chói những nét đặc sắc của tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Theo TTXVN