Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961- 23/10/2011):

Hiệu quả đường Hồ Chí Minh trên biển

Cập nhật lúc 09:48, Thứ Tư, 21/09/2011 (GMT+7)

>>Kỳ 1: Sự tích một con đường huyền thoại

>>Kỳ 2: Quảng Bình - Nơi khởi đầu của con đường Hồ Chí Minh trên biển

(QBĐT) - Trong quân sự, người ta tính hiệu quả của một trận đánh hay một chiến dịch hành quân  bằng  hai yếu tố: thứ nhất  thực hiện được mục tiêu nhiệm vụ đề ra,  thứ hai  là số thiệt hại về con người và phương tiện ít nhất . Xét trên hai góc độ đó, đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường hiệu qủa nhất. Tỷ  lệ số chuyến tàu đến bến vượt quá những dự ước ban đầu mà những người  vạch ra nó tính toán. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một con đường chiến lược thực sự, gây  kinh hoàng cho địch.

Như trên đã công bố , từ tháng 10/1962 cho đến 4/1975, đoàn tàu không D759 và sau này là Đoàn 125, Lữ đoàn 125 Hải Quân đã  vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam 16.300 tấn vũ khí,  50 xe tăng, xe bọc thép và pháo lớn , nhiều loại hàng hóa quân sự ,cùng 18.741 cán bộ chiến sĩ vào chiến trường. Số vũ khí và cán bộ chiến sĩ đó đã từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho cách mạng. Số vũ khí đó đã góp phần quan trọng tạo nên những trận thắng lớn như Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Ấp Bắc, Tổng tiến Công Mậu Thân, đánh bại “chiến tranh đặc biệt” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào đám phán và ký Hiệp định Paris.

Rồi cuối cùng là chiến thắng Xuân 1975 “đánh cho Mỹ cút. Đánh cho ngụy nhào”. Có thể nói chiến trường Khu 9 Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ, Khu 8, Khu 5 mà không có con đường Hồ Chí Minh trên biển với những con tàu không số lừng danh thì không thể có  vũ khí để đánh giặc . Con đường vận tải chiến lược  ấy trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng  phát triển. Từ tàu võ gỗ đến tàu vỏ sắt, từ tàu trọng tải 30, 50 tấn đến tàu 100, 200, 500 tấn tốc độ cao, từ đi gần bờ đến đi trên hải phận quốc tế, từ đi bí mật đến  đi công khai đều có kết quả.

Hiệu năng của Đường Hồ Chí Minh trên biển  còn thể hiện ở chỗ ta tốn  rất ít người, rất ít thời gian mà làm được việc lớn . Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyễn Giáp đã tổng kết sau chuyến đi  thành công của con tàu không số đầu tiên  :”...Tính ra theo đường biển, tàu chở 30 tấn  vũ khí, trang bị cho một tiểu đoàn, chỉ đi trong 9 ngày  với một tiểu đội, lợi  hơn gấp bao nhiêu lần đường bộ, bằng 1.500 người gùi cõng trên đường Trường Sơn A trong 5 tháng...”  Theo số liệu  tổng kết của Lữ đoàn 125, thì trong suốt từ 1962- 1972, 10 năm  vận tải vũ khí vào Nam bằng đường biển, ta chỉ có 97 cán bộ , chiến sĩ hy sinh, ba bốn chục chiến sĩ bị địch bắt , sau đó trao trả theo Hiệp định Paris năm 1973, 9 chuyến tàu và hàng  ta tự nổ mìn phá hủy để xóa dấu viết, chỉ 2 tàu bị địch bắt , 100 lượt chuyến phải quay trở lại miền Bắc, vì địch  ngăn chặn, không  vào bến được, nhưng sau đó lại xuất phát. Qua những con số trên ta thấy thiệt hại của Đoàn tàu không số là rất nhỏ so với  những gì mà nó làm được .

Tháng 8-1962, Quân Ủy Trung ương họp, sau khi nghe trung tướng Trần Văn Trà, phó tham mưu trưởng báo cáo tóm tắt về công tác mở đường vận tải chiến lược trên biển, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi :” Liệu có bảo đảm chắc chắn được 50 phần trăm những chuyến đi không ?”. Đồng chí Trần Văn Trà trả lời :” Đạt  100 phần trăm thì khó chứ  50 phần trăm thì tôi chắc được .”.Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nói thêm :” Chỉ cần nửa số chuyến đi vào được bến cũng đã là thắng lợi to rồi “. Nhưng trên thực tế, từ năm 1962- 1973, tàu của D759 đi 168 chuyến ( có 6 chuyến  trinh sát, không chở vũ khí);  tàu của D371 của Khu 9 đi 31 chuyến. Thế mà  chỉ có 9 chuyến tàu phải nổ mìn phá hủy, 2 tàu bị địch bắt, tỷ lệ tổn thất như thế là rất nhỏ. Thật ngoạn mục !

Có được thành công như thế là nhờ công tác đảm bảo bí mật và ý thức trách nhiệm , tinh thần quyết tử của  từng chinh trị viên, thuyền trưởng và các thủy thủ trên mỗi con tàu .  Mỗi con tàu và hàng chục tấn vũ khí chở trên tàu là một tài sản lớn, giá trị có khi lên đến  vài ba triệu đô-la. Nên việc phá hủy tàu chị xảy ra khi tàu bị tàu địch bao vây, tấn công, không thể tiếp tục hành trình, để giữ bí mật  của con đường. Mỗi con tàu  hai đáy khi lên đường đều có gắn một khối bộc phá lớn, từ 500 đến 1500 cân tùy theo trọng tải tàu. Khi điểm hỏa  tàu sẽ nổ tan thành khói bụi . Địch không thể xác định được tung tích con tàu. Theo quy định thì thuyền trưởng và chính trị  viên là người lãnh đạo, chỉ huy đánh  bộc phá phá hủy tàu. Thuyền trưởng chỉ huy chung. , nhân viên hàng hải lái tàu, còn máy trưởng chịu trách nhiệm điểm hỏa. Ba người này phải chịu trách nhiệm thay thế nhau để đánh bộc phá hủy tàu bằng được. Để bạn đọc hiểu thêm về hiệu quả của  con đường bí mật trên biển, tôi xin kể về chuyện  nổ mìn phá hủy tàu  và vũ khí để bạn đọc  biết  thủy thủ những con tàu không số đã sống chết với con tàu, bảo về sinh mệnh của  anh em thủy thủ như thế nào.

Ngày 26/9/1963, chiếc tàu gỗ chở 18 tấn vũ khí từ Đồ Sơn vào Bà Rịa do thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy. Qua vĩ tuyền 17 thì bị  sóng gió cấp 6, cấp 7. Ai cũng bị say sóng, trừ máy trưởng  Năm Sao, chính trị viên Thanh và thủy thủ Thắng Rô. Tàu lắc đến nỗi, anh em nấu ăn phải cho màn vào nồi cháo để cháo đỡ sánh ra ngoài. Nấu 5 tiếng đồng hồ mới  chín được nồi cháo.Vào đến  bến Sông Ray, Lộc An ( Bà Rịa) thuyền trưởng cử người  bơi vào bờ bắt liên lạc cũng không được. Tàu bị mắc cạn. Tình hình hết sức nguy hiểm. Chỉ huy tầu phải thuyết phục bà con ngư dân  chuyển hàng giúp . Bà con đồng  ý, ghé thuyền đánh cá vào mạn tàu, nhanh chóng chuyển hàng vào bờ. Lúc này địch đang tập trung quân và xe thiết giáp ở đồn Phước Hải để càn quét vùng này.

Chỉ huy bến Lộc An yêu cầu khẩn trương hủy tàu để giữ bí mật Chỉ huy tàu hội ý. Có ý kiến cho rằng bến đã có lệnh thì phá , để tàu nằm ở đây ngày mai lộ thì gay. Máy trưởng Nam Sao khóc, bảo rằng :” Đảng, Nhà nước trao cho ta con tàu này. Phá hay không, phá lúc nào là do chúng ta chịu trách nhiệm. Ai sợ thì lên bờ. Tôi xin ở lại quyết sống chết với con tàu  !”. Chính trị viên Thanh ra lệnh thuyền trưởng Lê Văn Một dẫn anh em lên bờ sơ tán, còn anh  và máy trưởng Nam Sao, thủy thủ trưởng Nguyễn Văn Ngọc ,thợ máy Thôi Văn Nam và bác Ba Nhợ ở lại để hủy tàu khi cần thiết. Anh treo cờ ba que của Sào Gòn lên đỉnh cột buồm , rồi chỉ đạo mọi người gài kíp nổ vào khối bộc phá , vừa canh chừng vừa giả vờ dọn dẹp, vá lưới. 10 giờ sáng, chỉ huy bến  cử người  ra truyền lệnh hủy tàu :” Nếu để địch lấy được tàu thì các đồng chí hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Nghĩ đến việc hủy tàu, chính trị viên Thanh thấy không cần thiết  nhiều người ở lại tàu. Anh quyết định bác Ba Nhỡ và Ngọc vào bờ . Hai người không chịu đi, một mực đòi ở lại cùng nhau sống chết với con tàu. Anh Thành ra lệnh lần thứ hai, hai người mới chịu chấp hành.

Trưa một máy bay AD6 bay tới.. Bác Nam Sao đang vặt lông gà vội bỏ dỡ chạy vào xách can xăng lao xuống hầm máy. Máy bay địch bổ nhào  như thế  bắn phá con tàu đến nơi. Sau một hồi làm trò “mèo vờn chuột” chúng thấy chiếc tàu không động tĩnh gì nên bỏ đi.. Đặng Văn Thanh mở tủ lấy giấy tờ và khẩu súng ngắn gói vào chiếc khăn rằn trao cho Thôi Văn Nam, dặn:” Đồng chí mang cái này vào bờ. Nếu trường hợp phải phá tàu, chúng tôi hy sinh thì đồng chí báo cáo với Đảng ủy , trưởng Đoàn rằng, chúng tôi đã chấp hành mệnh lệnh của Đoàn giao cho, giữ tàu đến phút cuối cùng, khi không thể giữ nổi mới phá !”. Bác Nam Sao lặng lễ chuẩn bị bữa ăn  mà bác cho là rất đặc biệt , có thể đây là bữa cuối cùng để vĩnh  biệt nhau, vĩnh biệt con tàu thân yêu. Chính trị viên Thanh nói với bác Nam:” Tôi nhìn vào hướng bờ. Chú nhìn ra hướng biển. Nếu nó sáp vô, tôi giật nụ xòe, chú đổ xăng vào buông máy nghen”. Rồi cảt hai cùng uống rượu và căng  thẳng chờ đợi.

Giữa buổi chiều nước lên, tàu nổi dần. Máy trưởng Nam Sao khởi động máy. Chính trị viên Thanh điều khiển tàu ra khởi bãi cạn. 5 giờ chiều, con tàu chạy  lẫn vào  đoàn thuyền đánh cá, vào bờ bốc nốt số hàng còn lại và đón thuyền trưởng Một và mọi người lên bờ. Anh em ôm nhau trào nước mắt. Chính trị viên Thanh và  bác Nam Sao đã  nêu một tấm gương  sáng về lòng dũng cảm, sự tin tin, quyết đoán, vừa hoàn thành chuyến đi  vừa không phải hủy con tàu thân yêu.

Những chuyện yêu tàu như thế rất nhiều trong 14 năm hành trình của đoàn tàu không số.

Trong chuyện phá tàu, lại có tấm gương anh hùng của thủy thủ .. Đêm 9-11-1966. Tàu C41 cùng 15 thủy thủ  chở 59 tấn vũ khí rời bến K20 vào bến Đức Phổ, Quảng Ngãi. Tàu do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh chỉ huy.  Đức Phổ là bến bãi ngang. Đêm 26/11, tàu vào đúng bến, thả hàng xong , quay ra thì bị mắc cạn. Ngoài khơi có nhiều tàu địch hoạt động. Chỉ huy tàu hội ý quyết dịnh hủy tàu. Mọi người được lệnh rút lên bờ, chỉ thuyền trưởng và máy trưởng Phan Nhạn ở lại châm ngòi nổ bộc phá rồi rút sau. . Nguyên tắc là 30 phút  bộc phá sẽ nổ, nhưng chờ quá thờ gian mà bộc phá không nổ, trời lại sắp sáng. Tàu lộ  sẽ làm lộ một con đường vận tải chiến lược,  tổn thất  sẽ lớn hơn nhiều. Nóng ruột quá, thuyền phó Dương Văn Lộc và thủy thủ trưởng Trần Nhợ cùng lao xuống nước bơi trở lại tàu để kiểm tra ngòi  nổ và bộc phá. Hai người  vừa ra tới tàu thì bộc phá nổ làm rung chuyển mặt biển, phá nát con tàu C41. Hai đồng chí đã anh dũng hy sinh cùng với con tàu thân yêu. 13 chiến sĩ tàu 41 hướng ra biển khóc vĩnh biệt hai người  con của khu 5 anh hùng. Anh Lộc quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam, còn Trần Nhợ quê Phù Cát, Bình Định.

Cũng có trường hợp hủy tàu rất thông minh của người chính trị viên đã cứu sống 16 đồng đội. Đó là chuyện con tàu V645 ngày 24-4-. Con tàu gồm 20 thủy thủ, chở 70 tấn đạn cối  và 1 tấn thuốc nổ TNT vào Khu 9. Lúc đến vùng biển cách Phú Quốc  60 hải lý, tàu bị tàu khu trục của địch bao vậy. Chúng bắn xối xả. Tàu ta nổ súng đánh trả. Đã có một số anh em thủy thủ  si sinh. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu và thuyền trưởng Lê Hà động viên anh em  quyết tâm chiến đấu. Một quả đạn địch rơi trúng bánh lái tàu. Thế là tàu  cứ chạy vòng tròn. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu ra lệnh cho thuyền trưởng Lê Hà và tất cả anh em rời khỏi tàu  bơi ra xa, để anh vừa điều khiển tàu vừa điểm hỏa phá hủy tàu.

Nhìn 16 anh em dìu nhau bơi trên biển, chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu lo điểm hỏa  tàu nổ khi tàu gần anh em thì nhất định sẽ không  còn ai sống sót. Nên anh Hiệu chờ tàu  vòng  ra vị trí  xa anh em nhất mới điểm hỏa. Tàu nổ tan tành, anh Hiệu  hy sinh. Còn 16 anh em thủy thủ thì bị tàu địch bắt giam ở nhà lao Phú Quốc. Sau Hiệp định Paris được trao trả. Nguyễn Văn Hiệu quê ở xã Thăng Phương, Thăng Bình, Quảng Nam. Anh  có vợ và  4 con. Anh đã 13 lần chỉ huy  tàu không số đưa hàng vào miền Nam, chuyến này là chuyến thứ 14. Anh Nguyễn Văn Hiệu được Nhà nước truy tăng danh hiệu anh  hùng lực lượng vũ trang  năm 1970. Tin vui là sau 39 năm anh Hiệu hy sinh , các chiên sĩ Hải quân vùng 5 đã tìm thấy một bộ phận hài cốt  của anh trên bãi biển Phú Quốc. Gia đình đã bằng tâm linh và khoa học xác định được đây đúng là hải cốt của anh, đem về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Hải Phòng.

Xẻ dọc biển đông đi cứu nước. Con đường chiến lược tàu không số trên biển Đông đã ra đời  và thành công ngoài mong đợi  như thế đấy.  Ở  trong rừng được tại rạch Xẻo Già, Tân An, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau có một con tàu không số đang  nằm lại đây từ  tháng 2-1967 đến nay, đã 44 năm rồi . Đây là con tàu  C69 chở vũ khí từ Bắc vào bến Bồ Đề từ tháng 4-1966. Hàng hóa đến bên an toàn nhưng con tàu bị  hỏng chân vịt, sữa chữa đến 9 tháng sau mới rời bến về miền Bắc. Nhưng đi được  ra biển 30 hải lý thì bị tàu chiến , máy bay địch chặn đánh, tàu bị cháy, bị hỏng nặng, nhưng vẫn lao vào bến, tiến sâu vào rừng đước âm u Cà Mau. Có thể đây là  dấu tích còn lại duy nhất của những con tàu không số. Rồi tàu sẽ bị thời gian  làm rỉ rét . Có những con đường không còn ai đi nữa. Có những câu ca không còn ai hát nữa.

Nhưng, hình ảnh những con tàu không số  sẽ tồn tại mãi mãi trong tâm trí và lịch sử đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta.


                                                                                           Ngô Minh

,
.
.
.