.

Ao làng

Thứ Sáu, 14/03/2014, 14:07 [GMT+7]

(QBĐT) - Quê tôi ngày xưa, làng thưa nhà, người còn ít. Mấy chục nóc nhà nhưng gia đình nào ngoài vườn trồng cây ăn quả cũng đều có một cái ao để thả cá. Cái ao nằm giữa vườn cây tạo nên phong cảnh hữu tình. Bên này bờ ao chàng trai ngồi câu cá. Bên kia cô gái giặt áo, vớt bèo. Những mối tình nảy nở. Những bóng hình lứa đôi soi bóng nước ao nhà...

Những cái ao ngày ấy rất rộng và trong xanh. Những trưa hè, tụi trẻ con chúng tôi thường nhảy ùm xuống ao tắm. Một đoạn cây chuối mấy thằng bám vào bì bõm tập bơi. Rồi từ cái ao làng phẳng lặng, nhỏ bé, chúng tôi biết bơi để ra hồ, ra sông, ra biển lớn đầy sóng gió. Cũng như từ sau bụi tre làng xanh quanh năm bình yên, chúng tôi lớn lên vững bước vào đời với bao sự biến động, thử thách chông gai.

Tôi còn nhớ khi còn nhỏ rất thích đi câu cá. Chúng tôi có những chiếc cần câu trúc uốn cong rất đẹp và dẻo. Chúng tôi thường kéo nhau đi cả buổi lên rừng tìm cần câu. Quê tôi ngày ấy rừng già rậm rạp, có những cây gỗ quý như lim, de, rùa, mấy người ôm không xuể. Những bụi tre, bụi trúc, tha hồ mà chọn những cây trúc, cây rui thật suôn, thật thẳng về uốn làm cần câu. Mỗi đứa chúng tôi đều có đủ các loại cần câu. Cần câu cá trê, cá chuối phải cứng, cần câu cá rô, cá diếc phải mềm, phải dẻo, cần câu tôm càng thì chỉ là những thanh tre vót mảnh như cái tăm. Những cái ao trong làng ngày ấy rất nhiều các loại cá hoang hay cắn câu như cá trê, cá rô, cá chuối, lươn, trạch...

Ảnh: P.V
Ảnh minh họa. (Ảnh: P.V)

Câu cá ở ao cũng là cả một nghệ thuật, là sự kiên trì. Cá rô ta (thường gọi là rô đồng) ăn nhạy nhưng khó dính vào lưỡi câu. Trừ loại cá rô phi là ham mồi, có con bị giật trượt rách cả mép vẫn cứ lau nhau lao vào đớp mồi. Cả đàn xoắn xuýt quanh mồi câu, có lúc giật lên thấy lưỡi câu móc cả vào lưng, vào bụng cá. Cá trê thì chậm bắt mồi câu nhưng khi đã đớp mồi thì thường nóng vội kéo vút đi ngay. Ban đêm cá trê hay cắn câu hơn ban ngày. Nhưng ngồi câu đừng ngủ gật, lỏng tay cần, cá kéo mạnh lôi luôn cần câu ra giữa ao, trời thu lạnh ngại lội xuống vớt. Có đêm gặp đàn cá ham mồi, tôi giật được cả vài chục con cá trê vàng ươm. Cá trê kho nục hoặc cá trê nướng ăn đều ngon. Câu cá chuối là cả một sự kiên trì và khôn khéo. Cá chuối đẻ trứng hoặc đang nuôi con nhỏ thường dễ câu hơn. Chỉ cần móc lưỡi câu vào một con trạch hay con nhái còn sống thả vào đàn cá con là sẽ giật ngay được con cá mẹ.

Cá chuối mẹ ham con, bảo vệ con, thấy có con vật nào ngoe ngoảy giữa đám con của mình là sẽ lao đến đớp ngay. Khi con cá cái bị vướng lưỡi câu, con cá chuối đực vẫn tiếp tục bảo vệ đàn con đến khi chúng lớn mới thôi. Câu được cả con cá đực này không phải là dễ. Mùa thu ao cạn, nước trong veo, nhìn rõ cả con cá chuối nằm im gần bờ. Nó gần như bất động. Muốn câu được nó phải nấp thật kín, cần câu phải thò ra thật nhẹ nhàng, không để gây ra tiếng động và điều quan trọng nhất là phải thả mồi câu ở xa về phía đuôi con cá. Cá chuối rất thính. Khi thấy động ở phía sau nó sẽ quay ngoắt lại và đớp mồi. Còn nếu thả mồi ngay phía trước mặt nó thì nó lập tức phóng vút ngay ra giữa ao, mất tăm.

Mùa thu, khi mướp đã ra hoa cũng là mùa câu ếch. Ếch sống ở ao thường to và béo. Mùa thu đến, sau một mùa sinh đẻ và ăn uống đầy đủ, ếch chuẩn bị vào hang ngủ đông nên thường ít vận động. Nó hay nổi lên mặt ao ngồi trên những đám bèo. Ra ao chỉ nhìn một lượt đám bèo là phát hiện đang có mấy con ếch đang ngồi hóng mát. Chúng tôi thường móc vào lưỡi câu những cái hoa mướp vàng đã héo vừa rụng để nhử ếch. Cũng giống như câu cá chuối, mồi câu phải thả phía sau con ếch giật giật rồi kéo nhẹ.

Thấy động, con ếch sẽ quay lại đớp mồi ngay. Còn nếu buông mồi đột ngột phía trước mặt thì đừng hòng ếch mắc mưu. Cũng chưa thấy ai lý giải vì sao ếch rất thích đớp hoa mướp màu vàng.

Quanh cái ao làng có bao nhiêu kỷ niệm. Kỷ niệm đáng nhớ nhất vẫn là tắm ao và câu cá. Lớn lên ra đi tới bao phương trời, tôi vẫn không quên những chuyện của ngày thơ ấu. Bây giờ về quê, đất chật, người đông, ao hồ san lấp gần hết để làm nhà, làm đường. Rồi quy trình gieo trồng canh tác mới, thuốc sâu, phân hóa học rải xuống đồng ruộng ngày càng nhiều nên gần như tiệt diệt, không còn thấy các loại cá hoang như cá rô, cá trê, cá trạch, cá chuối nữa. Đêm đêm, cũng ít nghe tiếng ếch "ồm ộp" kêu trong làng như ngày xưa.

Nhà tôi vẫn còn giữ được một khoảnh ao nho nhỏ, cũng có thả một ít cá rô phi. Một hôm về quê, tự dưng tôi thèm được câu cá quá. Nhưng không thể tìm đâu ra một cái cần câu. Rừng già đã biến mất từ lâu trên quê tôi nên chẳng còn những khóm trúc mọc hoang trên đồi. Tôi đành chặt một nhánh tay tre làm cần câu. Cá cắn câu, giật con cá lên với cái cần cong queo, cứng ngắc, mất cả cái thú của người đi câu...

Vậy đó, bây giờ và mai sau nữa, lớp trẻ con làng quê thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ mất dần khái niệm về cái ao làng, về những trò chơi, những thú vui, những chuyện ở nông thôn. Thật tiếc, khi cái ao làng sẽ vĩnh viễn biến mất nơi làng quê Việt của chúng ta.

Tản văn của Trọng Bảo