.

Ngang qua Ngư Thủy

Thứ Sáu, 21/11/2014, 15:29 [GMT+7]

(QBĐT) - Ngày nay Ngư Thủy đã trở thành ba xã Ngư Thủy Bắc, Ngư Thủy Trung, Ngư Thủy Nam. Ngư Thủy của ngày xưa xa lắc, khó khăn ở một xứ cát vô biên khắc nghiệt. Không có chỗ cho thuận lợi. Ngày nay cũng mạch đất đó, nhưng phận người đã khác. Không còn ai sống trong cảnh nhà rười chụp trên cát. Sự sáng dạ của ngư dân vùng Ngư Thủy đã đưa họ vượt lên khắc nghiệt của cát, giành lấy thế chủ động cuộc sống một cách mạnh mẽ và cường tráng.

Đường về Ngư Thủy

Ba xã Ngư Thủy ngày nay có ít nhất ba con đường nối từ Quốc lộ 1 về với những làng biển bãi ngang này. Khi xưa, tiền nhân chọn đất đặt làng, khai canh những dòng họ ở đây chỉ có một con đường duy nhất, lội qua các núi cát cao ngất để mở đất dựng nhà. Cha ông của những hậu thế Ngư Thủy ngày xưa lấy tự nhiên rất khốc liệt ở đây để sinh sống. Sản vật đều từ biển, cá mắm dùng đổi gạo xứ ruộng.

Khó khăn trong ký ức của những người già nhất từ các mảnh làng này đều chưa thể phai mờ trong nếp nhăn. Từ làng này qua làng khác đều băng băng qua cát. Từ xóm này qua xóm khác đều cật lực lội cát. Từ nhà này sang nhà khác đều phăm phăm trên cát. Người dân Ngư Thủy muốn ra thế giới bên ngoài phải vượt rú cát trắng khô...

Nay, từ Hồng Thủy, một con đường bằng nhựa ra với Ngư Thủy Bắc. Xưa, nơi đó là cát. Nay con đường không lớn, nhưng đủ cho vận chuyển bất cứ thứ gì cuộc sống ở đó cần. Nó không chỉ là đường sá cho người Ngư Thủy Bắc ra với bên ngoài mà còn là nơi để những xã vùng giữa Lệ Thủy khơi thông ra bãi biển mát rượi xứ này trong trời hè nóng bức, ngột ngạt.

Chuẩn bị ra khơi.
Chuẩn bị ra khơi.

Về Ngư Thủy Trung, một con đường nhựa mới, phẳng phiu, giữa rừng xanh trên rú cát cũng nối từ Hưng Thủy về, con đường đó khơi thông bức bí đi lại và xóa đi sự cô lập khó khăn của mỗi mùa mưa bão với người dân xứ này. Còn ở Ngư Thủy Nam, đường đất đỏ từ Sen Thủy về cũng làm nên nhịp điệu ấy với người dân. Và từ ba xã Ngư Thủy, một đường trục dọc nối dài là thành quả của đường an ninh - quốc phòng đã nối liền ba địa phương dọc dài trên cát lại với nhau.

Cụ ông Ngô Văn Tùi nói: “Hồi chưa có đường, muốn có lít dầu, muốn có cân đường, muốn có lon sữa, phải đi bộ qua mấy núi cát, đi bộ mấy cây số trên cát từ sáng sớm đến nắng bức thì sang được quốc lộ, đi bộ mãi mới mua được thứ cần thiết. Chừ những thứ đó, người ta mở quán ra tận làng, xe đưa về tận làng, tha hồ mà mua. Nhờ có đường vượt cát đó chú ơi”.

Còn chị Hoa ở Tân Hải (Ngư Thủy Bắc) kể chuyện: “Ngày xưa, đàn bà con gái phải giặt giũ, chừ cũng rứa, nhưng muốn có xà phòng thì lội cát mà mua. Nhà có việc không đi được thì gửi, phải chờ, phải đợi, mà ngày đó xà phòng hiếm như vàng. Chừ thì quán tạp hóa mở ra, xà phòng hay bất cứ thứ chi cho chị em nội trợ gia đình cần đều theo đường sá về làng. Trừ những thứ cao sang khác, còn lại có hết”.

Thay đổi ngoạn mục

Biển Ngư Thủy Nam mỗi buổi sáng, người khắp các ngõ túa ra bờ biển đông đúc. Đông đúc nhiều tháng liền trong vụ cá Nam. Người tràn ra đầy sinh khí. Nó khác với nhiều làng biển bãi ngang khác ở miền Trung đang khó khăn tìm lối ra để có cuộc mưu sinh khả quan hơn.

Cụ ông Trương Văn Hiếu kể: “Trước đây, Ngư Thủy Nam là nơi nghèo khó nhất vùng. Bãi ngang đi ngân hàng vay tiền đóng tàu lớn không ngân hàng mô cho vay cả. Họ nói đóng tàu xong không có lạch tránh bão thì tán gia bại sản không thể cho vay. Người làng xoay trần với cát. Có mấy trăm chiếc thuyền nhỏ, gọi là bơ nan, chỉ đi biển một đêm hoặc một ngày rồi vào bờ”. Thuyền vào bận ấy, khoang chỉ dăm ba con cá nục, ít con cá trích, vài con cá mực không đủ chi phí đèn dầu.

Ông Nguyễn Thanh Lâm, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã đau đáu: “Làng có biển, rứa mà khó khăn, rứa mà đánh bắt không có gì. Cũng chiếc thuyền nan như cha ông mấy trăm năm trước, lối đánh bắt xưa cổ như trước, nhờ trời là chính nên chẳng được chi cả. Đi ra đi vô đều lỗ cả. Dân buồn, lãnh đạo xã cũng buồn. Nhưng may, làng Liêm Tiến có anh Điện đi xa về mà làng biển khác hẳn”.

Mùa cá ở làng biển Ngư Thủy.
Mùa cá ở làng biển Ngư Thủy.

Ấy là ngư dân Hoàng Ngọc Điện. Làng nghèo, nhà anh cũng nghèo phải đi xứ biển miền Nam làm thuê. Điện choáng ngợp trước cách đánh bắt của ngư dân phía đó, đầy đủ máy móc, đầy đủ hiện đại trên các con tàu to. Trong số máy móc đó, anh chú ý đến chiếc máy dò cá. Điện kể: “Tui dò hỏi, hỏi đến khi mô họ không còn chi trả lời là xong, tui xin nghỉ, về quê. Bà con đi biển xa đánh cá lớn, máy dò lớn. Dân làng tui ghe nhỏ, bơ nan thì mua máy dò nhỏ”. Về được làng, Điện bắt xe vào Đà Nẵng, vay mượn tiền mua chiếc máy dò nhỏ như chiếc thoại để bàn, loại dò cá của Nhật Bản.

Chuyến ra khơi đầu tiên của năm 2013, cả nhà, cả xóm rồi cả làng cứ ngóng tin tàu của Điện. Có người nói: “Kinh nghiệm cha ông để lại chưa ăn thua, cái máy nhỏ như bàn tay rứa ra cơm cháo chi”.

Nhưng khi thuyền của Điện cập bờ, sau một đêm giữa biển, khoang đầy ắp cá. Rồi chuyến sau, chuyến sau nữa, chuyến nào Điện cũng thu về vài tấn cá. Gần đây nhất, thuyền của Điện đánh được cả 6 tấn cá. Phải nhờ các thuyền nan khác dìu vào bờ vì sợ chìm thuyền...

Từ cái máy “tìm cá” của Điện, người Ngư Thủy Nam dần phổ cập cho chiếc thuyền bơ nan của mình. Chiều lại, từng tốp ngư dân ra biển, cái hộp nhôm nhỏ như tủ thuốc được nâng như nâng trứng. Khi ra ở vị trí đánh bắt, máy được bật lên, họ dò theo rặng san hô khổng lồ cách bờ chừng 5 hải lý, nơi đó vô số cá biển đang ẩn cư theo loài với từng đàn đông đúc...

Sáng sớm hôm sau, mặt trời ló dạng, chừng 5 giờ sáng, các thuyền lặc lè vượt sóng vào bờ. Từng thúng cá được bê lên từ khoang thuyền. Đủ loại cá. Nhưng chủ lực vẫn là cá nục, cá trích, và mực nháy còn tươi rói. Ngư dân ở đây cho biết, cá của họ không hề ướp đá, đánh bắt trong đêm, vào bờ đã có xe của thương lái đợi sẵn bên chân sóng thu mua. Mỗi ký cá 8.000 đồng, mỗi thuyền đi 4 người, mỗi đêm họ đạt từ vài tạ cá đến nhiều nhất có thuyền 6 tấn cá.

Tính ra, trừ chi phí, mỗi người được 500.000 đến chừng 1 triệu. Ông Ngô Văn Quyến hồ hởi: “Một đêm đi biển, bãi ngang được chia như rứa là mừng. Nhưng có khi được chia đến 2 rồi 3 triệu là vì trúng đậm, mà trúng đậm thì đúng nhờ vô cái máy tìm cá của người Nhật cả”.

Không chỉ Ngư Thủy Nam mà Ngư Thủy Trung, Ngư Thủy Bắc cũng đưa máy dò cá của Nhật Bản lên chiếc thuyền bơ nan nhỏ thó trước biển cả. Họ đánh bắt gần bờ nên mong đủ ăn, đủ mặc đã là ước mơ. Nhưng hai năm nay, khi có chiếc máy này, cuộc đời của ngư dân ở đây luôn có việc làm.

Con cá biển được cắt ra để nuôi cá lóc, một chuyện hiếm ở làng biển.
Con cá biển được cắt ra để nuôi cá lóc, một chuyện hiếm ở làng biển.

Cũng chừng đó thời gian, nhờ có chiếc máy ấy, nhiều nhà cửa của ngư dân ở vùng Ngư Thủy được xây xa kiên cố. Con cá Ngư Thủy tươi ngon vì không ngâm tẩm, được khách khứa trong vùng và cả tận Đồng Hới đặt mua, bởi cái cách thức làm cá chân chất và bán không đắt đỏ đã cuốn hút khách khứa phương xa.

Cá biển nuôi cá nước ngọt

Người vùng Ngư Thủy nay có một chuyện mới họ đáng tự hào. Quê hương xứ biển mặn mòi lại nuôi rất tốt con cá lóc xứ ruộng. Họ không cho cá ăn bột tăng trọng mà vỗ béo chúng bằng chính con cá biển họ đánh bắt được. Ngư Thủy Nam là trung tâm của cách nuôi cá lóc này. Lang thang trên biển làng, thấy từng tốp ngư dân dùng kéo cắt cá tươi rói thành mảnh, hỏi phải bà con làm mắm?

Họ lắc đầu: “Để nuôi cá lóc chú ạ”. Ông Nguyễn Xuân Quyết đang cùng vợ cắt mấy rổ cá nói thêm: “Chú không tin à. Chút nữa theo tui vô cho cá ăn là biết. ở đây nuôi cá lóc mà cho ăn bột công nghiệp là tốn kém, vì thứ đó cá lóc ăn nhiều quá, đến bữa chưa có chúng đâm ra cắn nhau, ăn thịt nhau, lỗ hết. Cá biển ở đây mỗi cân tính ra mua gốc giá 8.000 đồng, cắt nhỏ cho cá lóc ăn, cuối vụ tui lời được 20 triệu, rứa là mừng hung, được hung. Ham hố lời nhiều mần chi. Phải uy tín thì cá nuôi ra mới ngon chú ạ”.

Chạy khắp các làng cát ở Ngư Thủy, gần như nhà nào cũng có một hồ cá. Trước đây không hề có cảnh này, bởi lúc đó nghèo, cái ăn lần mò từng bữa trên cát, không nghĩ ra được cách gì để khá hơn. Nay, mọi thứ đã đổi đời khi có con đường vượt sa mạc cát về với những phận người ở đây. Không chỉ người dân thoát cảnh khó khăn mà nhiều o gái của đội pháo binh Ngư Thủy năm xưa cũng thoát khó khăn.

Như o Huân buôn bán cá mắm, đồ khô... đã gầy dựng được nhà cửa, tạo cơ nghiệp cho con cái.
Ngư Thủy ngày nay đã khác. Tuy cuộc sống phía trước vẫn còn nhiều lo toan. Nhưng người làng biển bãi ngang đã vượt qua được định mệnh để chủ động với bao ba đào sóng cả. Làng của họ xưa cực nhưng là nếp đất cha ông để lại. Nay họ đã biết vươn vai để không thẹn với tiền nhân.

Minh Phong