.
Ký sự pháp đình:

Những đứa con trên giấy tờ

Chủ Nhật, 22/01/2017, 10:12 [GMT+7]

(QBĐT) - Trong cuộc sống có nhiều biến đổi, việc vợ chồng chung sống không hạnh phúc dẫn đến ly hôn dường như đang có chiều hướng tăng lên, hệ lụy để lại là sự ảnh hưởng đến tâm sinh lý của con cái, những đứa trẻ trong gia đình được sinh ra và cùng nhau lớn lên, ít nhiều cũng đã tạo dựng cho nhau tình thân. Nhưng chúng đâu biết rằng, sẽ có một ngày không còn được như vậy…

 

Tranh chấp trong vụ án ly hôn giữa vợ chồng anh Phương và chị Vui là tranh chấp về con chung, đứa con trong giấy khai sinh là con chung của vợ chồng nhưng thực tế lại không phải.

Tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2006 nhưng chỉ chung sống với nhau được 3 tháng thì anh Phương đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Chị Vui lúc đó đang mang thai 6 tháng, sau đó sinh cháu B và sống chung với bố mẹ anh Phương.

Quá trình sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn giữa nhà chồng và nàng dâu, bản thân anh Phương không có trách nhiệm với vợ con. Thời gian đầu anh Phương có gửi tiền về để chi trả các khoản nợ vay khi đi lao động, nhưng lại không gửi tiền về để nuôi con. Chị Vui nhiều lần liên lạc qua điện thoại nhắc nhở anh Phương về trách nhiệm với vợ con nhưng anh Phương cho rằng vì làm ăn khó khăn nên không có tiền để gửi về.

Thấy vợ chồng buộc phải xa nhau vì điều kiện kinh tế, nhưng việc anh Phương đi làm ăn xa không có hiệu quả nên chị Vui động viên anh Phương về nước, vợ chồng đoàn tụ cùng nhau tìm cách khắc phục khó khăn, tuy nhiên anh Phương không đồng ý. Vì điều kiện cuộc sống khó khăn, chị Vui phải đưa con về nhà ngoại ở để đi làm. Đến tháng 4-2015 anh Phương về nước nhưng vợ chồng không ăn ở chung và không có trách nhiệm gì với nhau.

Mặt khác, theo chị Vui trình bày, trong thời gian ở nhà do thiếu thốn tình cảm, chị Vui đã ngoại tình với người khác và sinh ra cháu H. Chị Vui khẳng định đó không phải là con chung của chị với anh Phương, nhưng do con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên khi đi đăng ký khai sinh, chị Vui đã cung cấp đủ các giấy tờ đúng quy định và khai sinh tên cha đẻ của đứa bé là anh Phương. Nay anh Phương trở về, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể trở lại chung sống hạnh phúc nên chị kiên quyết xin ly hôn và yêu cầu anh Phương có trách nhiệm cấp dưỡng cho con chung giữa hai người.

Anh Phương hoàn toàn thừa nhận các nội dung về đăng ký kết hôn và điều kiện chung sống giữa vợ chồng như chị Vui đã trình bày. Tuy nhiên, mâu thuẫn vợ chồng không phải do anh Phương không có trách nhiệm với vợ con mà nguyên nhân chủ yếu là do chị Vui tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống mà không hỏi ý kiến của chồng. Anh Phương thừa nhận mặc dù vợ chồng chỉ chung sống với nhau 3 tháng sau khi kết hôn, trong khi chị Vui đã mang thai 6 tháng nhưng cháu B đúng là con của anh.

Trong thời gian anh ở nước ngoài chị Vui sinh thêm một đứa con với người khác không phải là con của anh Phương nhưng giấy khai sinh của cháu H có tên cha là anh Phương. Khi về nước và biết sự việc trên, anh Phương đã làm đơn đến các cơ quan hành chính để hủy giấy khai sinh nhưng không được.

Tại phiên tòa, anh Phương đồng ý ly hôn và chỉ yêu cầu Tòa án xem xét, làm rõ về vấn đề con chung. HĐXX xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên xử cho anh chị ly hôn. Về con chung, giao cháu B cho anh Phương trực tiếp nuôi dưỡng. Riêng cháu H, anh Phương và chị Vui đều yêu cầu Tòa án xác định cháu H không phải là con của anh Phương.

Qua xác minh thông tin xuất nhập cảnh tại Cục quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an đã xác định anh Phương xuất cảnh ngày 24-9-2006 qua cửa khẩu sân bay Quốc tế Nội Bài và ngày 13/4/2015 nhập cảnh qua cửa khẩu sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Không thấy thông tin xuất nhập cảnh của chị Vui. Từ trước đến nay chị Vui sinh sống tại địa phương chưa bao giờ ra nước ngoài, có xác nhận của trưởng thôn và UBND xã.

Như vậy có căn cứ xác định vào thời điểm chị Vui thụ thai cháu H, anh Phương đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên chị Vui không thể có thai với anh Phương. Do đó, HĐXX đã áp dụng Khoản 2 Điều 88; Điều 89 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của anh Phương và chị Vui, xác định cháu H không phải là con chung của vợ chồng anh chị. Chị Vui có trách nhiệm nuôi dưỡng cháu H và anh Phương không có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu H.

Phiên tòa kết thúc, giữa hội trường xét xử, anh Phương, chị Vui cùng hai đứa trẻ nhìn nhau với những ánh mắt ẩn chứa nhiều điều không thể nói. Vậy là kể từ đây, hai đứa trẻ sẽ sống và lớn lên ở hai gia đình khác nhau, sẽ không còn những phút giây có chị có em như đã từng…

Nguyễn Thị Tú Anh

--------------------------------------------

(*) Tên nhân vật đã được thay đổi.