.

Giếng làng

Thứ Tư, 23/09/2015, 09:23 [GMT+7]

(QBĐT) - Giếng làng như là một món quà vô giá của thiên nhiên ban tặng cho con người. Ở đó tròn vành vạnh khuôn giếng, khuôn trăng, khuôn mặt. Có vẻ rạng ngời chấp chới của bông hoa nắng, hoa nước. Có cái trong trẻo không đáy của tình người chưa bao giờ cạn. Có cái lặng lẽ khiêm nhường giấu bao bẽn lẽn để rồi từ tốn rót vào lòng người những tinh khôi, tinh khiết thấm dần vào dạ cái mát lạnh còn hơi đất mà ngọt lịm tươi nở. Ai là người đã biến chiếc mo cau thành cái gàu múc nước giếng. Mo cau còn ướp thoang thoảng vị hương cau dẻo dai và bền mỏng. Mo cau còn được dùng để gói cơm nếp, làm cái quạt xua đi cái nắng rát trưa hè. Hàng cau thì mọc thẳng vươn lên trời, còn giếng sâu thì mọc thẳng vươn sâu vào lòng đất. Âm - dương nối với nhau qua một sợi dây “kéo đi kéo lại mòn tay vẫn còn” như một sợi dây đàn khi căng, khi chùng ngân lên bao âm vực khi thăng, khi giáng. Nhưng giếng quê bao giờ cũng thủy chung, mộc mạc và ân tình, thấm lâu và bền nhớ. Giếng đã “rút ruột trưa hè tận đáy – bốc hơi ngùn ngụt ngày đông” để:  “nửa đêm giật mình thăm thẳm - giếng khơi đánh thức vòm trời”...

Trong tâm thức mỗi con người Việt hình như ai cũng có một giếng làng, dù là giếng làng trong tâm tưởng ở đó lưu giữ bao kỷ niệm. Giếng là mạch nguồn sâu thẳm, là lan tỏa những vòm sóng ký ức và nơi lưu bóng hồn quê làng. Giếng làng cứ đi về trong nỗi nhớ của những người xa quê từ trong cổ tích: hiện hữu một cô Tấm nuôi con cá Bống còn sót lại như nuôi giữ cái khát vọng hướng thiện của con người, rồi Giếng Ngọc ở đền Hùng Vương, Giếng Mỵ Châu ở đền Cổ Loa...

Giếng nước là nơi tụ hội nguồn sống, nơi tích phúc để dân làng ăn nên, làm ra. Giếng là đôi mắt tụ thủy của làng vì thế tự bao đời người ta truyền lại cho nhau một phương pháp đào giếng làng: vào trong đêm úp một cái bát nơi định đào giếng. Sáng ra thấy bát nào đọng nhiều hơi nước thì mạch nước ở đó tốt bởi là mạch dọc vì mạch dọc thẳng đứng nước nhiều và trong. Cây đa, bến nước, sân đình là những biểu tượng văn hóa gắn với làng quê, hồn quê Việt tồn tại từ bao nhiêu năm. Hình ảnh giếng làng đã ăn sâu bám rễ vào tâm hồn người dân quê thuần hậu đến mức nó đã thành hình ảnh thân thương, gần gũi không những trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà cả trong đời sống tâm linh, trong tình yêu đôi lứa: “Giếng làng giếng đá thì trong - Nghiêng gàu sẽ múc đo lòng cạn sâu”. Giếng cũng là nơi gặp gỡ chia tay trai làng lên đường ra  trận: “Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” (Chính Hữu).

Tôi đã đi qua bao miền quê. Có giếng đá ong trên đồi trung du mà chiếc cần tre nối sợi dây gàu múc nước: “Chiếc cần tre uốn cong cả trưa nồng”. Giếng nước trong vắt chắt từ đá sỏi soi xuống khuôn giếng là những lá cỏ xòe ô như những ngọn lửa màu xanh của sự sống. Tôi đã đi qua miền Trung gió Lào cát bỏng. Gió lào khô khốc bao nhiêu, bỏng rát bao nhiêu thì giếng làng miền Trung trong trẻo và lịm mát bấy nhiêu. Lạ thay, có những làng ven biển cách mép nước mặn mòi chưa đầy chục mét, lại có những cái giếng cát nông cạn nhưng lại ngấm ra tích tụ và dâng đầy cả một khuôn nước ngọt. Ngọt như được lọc ra từ bao lớp xỉ than, xỉ đá ở các bệ nước lọc công nghiệp. Ngọt từ mặn mòi của muối, ngọt từ nắng rát mặt trời, ngọt từ tấm lòng người quê làng biển. Tôi đã đến với bao miền kênh rạch Nam Bộ đã uống cạn những quả dừa bến tre, những lu nước mưa trong vắt. Nhưng cũng đã nhiều lần tần ngần buông chùng sợi dây gàu múc nước giếng trước một dáng hình thon thả áo bà ba, khăn rằn choàng vai, tóc dài bay trong gió của cô thôn nữ xứ miệt vườn. Và bao nhiêu cây trái sum suê trĩu nặng mùa hạ ngọt nồng lại được tưới từ những cái giếng mộc mạc đơn sơ đào ở góc vườn.

Tuổi thơ tôi được vùng vẫy nhảy choi choi khi được dội những gàu nước mát từ giếng. Rồi cũng từ giếng múc nước đổ xuống hang dế để tìm dế của một trò chơi con trẻ. Đến cái tuổi nhâm nhi chén trà ngon thảo mộc, hương sói, hương nhài, hương hoa ngậm sương, ngậm gió. Khi chiêu vị ngọt thanh tao của chén trà nóng hôi hổi bốc khói ta nhận ra vị nước giếng rất thiêng hội tụ vào đây cả tinh chất đất trời, cả thổ, cả thủy, cả nhân, cả nghĩa. Thế là một đời người bao lo toan buồn vui gắn với nông sâu một đời giếng khi vơi khi đầy.

Ngày nay cùng với sự thay đổi của cuộc sống hiện đại, giếng làng không còn nhiều như trước nữa. Nhưng trong tâm tưởng của mỗi người, “giếng kia dù đã lấp đầy - Giật mình nghe tiếng gàu dây va thành” như ngày xưa nhà thơ Tú Xương đã từng giật mình nghe tiếng gọi đò trong sông Lấp. Đây đó tôi vẫn còn bắt gặp những chiếc giếng làng dù rêu đã xanh rì, đá đã nhẵn mòn nhưng nước thì vẫn trong, trời vẫn xanh tận đáy và cây đa cổ thụ mọc chòm râu năm tháng, mái đình vẫn cong mềm lại ngọn gió Lào. Và giữa đảo khơi xa những chiếc giếng quê, chùa làng vẫn được khơi sâu mọc lên như những cột mốc chủ quyền trường tồn cùng đất nước...

Nguyễn Ngọc Phú