.

Chuyện sư đoàn trưởng của tôi

.
09:14, Thứ Sáu, 21/12/2018 (GMT+7)
(QBĐT) - Đó là một buổi chiều cuối năm, trời miền tây Lệ Thủy rét căm căm trong cơn mưa phùn, gió bấc. Đại đội tôi được lệnh tập hợp để đón sư đoàn trưởng xuống huấn thị trước lúc lên đường vào Nam ra trận. Xin nói thêm, C20 của tôi là đại đội trinh sát trực thuộc ban quân báo sư đoàn nên được các chỉ huy sư đoàn coi như con cưng.
 
Vị sư trưởng của Sư đoàn 341 chúng tôi hồi đó là đại tá Trần Văn Trân, gọi thân mật theo kiểu miền Nam là Ba Trân. Với tôi và đồng đội trong Đại đội trinh sát C20, Ba Trân là một thần tượng. Ông vừa được phía bên kia trao trả theo hiệp định Pari tại dòng Thạch Hãn, Quảng Trị. Ngay sau khi được trao trả, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy sư đoàn của chúng tôi để đưa cả sư đoàn vào sâu trong chiến trường miền Nam, nơi mà ông đã rất quen thuộc trước khi bị quân đội Sài Gòn bắt giam. Riêng chuyện ngày trao trả của ông thì tôi và các bạn bè được nghe chính từ ông trưởng ban 2 kể lại với sự thán phục và kinh ngạc đến mức không dám chớp mắt.
 
Chuyện rằng, trong một lần đi chuẩn bị chiến trường ở vùng Bảy Núi, An Giang vào năm 1970, đoàn cán bộ tham mưu của ông bị quân địch bao vây và bắt gọn, nhiều người bị bắn chết. Khi đó, ông là thượng tá, sư đoàn trưởng. Đúng lúc người lính y tá bị trúng đạn ngã xuống ngay bên cạnh, ông đã nhanh chóng gỡ cái túi quân y của anh ra và đeo vào người với ý nghĩ là trong đó có nhiều thuốc men sẽ có lúc dùng đến. Sau đó, ông bị bắt. Bị tra hỏi, ông đã khai nhận mình là y tá của đơn vị. Quân địch tin ngay vì bằng chứng là thấy ông đang đeo cái túi quân y đầy thuốc men.
 
Ở trại giam tù binh Cần Thơ, ông được cử làm y tá của nhà tù, may mà lính ta hồi đó ai cũng có chút ít kiến thức về y tá (ngu ngơ như tôi cũng đã mất mấy ngày học cách băng bó, rồi lấy ống tiêm hút nước lã chích vô thân cây chuối hàng chục lần).
 
Nhưng phía địch vẫn gợn chút nghi ngờ vì thấy phong thái người lính y tá này sao chững chạc, ra dáng quá. Chúng vẫn tiếp tục điều tra và nghe phong thanh hình như đây chính là vị thượng tá sư trưởng. Chúng lại lôi ông lên tra khảo. "Có phải ông là thượng tá VC không?". Ông nói: Đúng như vậy. Anh em trong đơn vị thấy tôi lớn tuổi, đi lính lâu năm mà chỉ lên đến thượng sĩ y tá nên gọi tôi là thượng tá để trêu chọc". Đám sĩ quan phía bên kia cười thú vị và lấy làm tin về điều đó.
Cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 42 (Bộ CHQS Quảng Bình) tăng gia sản xuất. Ảnh: T.H
Cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 42 (Bộ CHQS Quảng Bình) tăng gia sản xuất. Ảnh: T.H
Ngày trao trả tù binh ở bờ sông Thạch Hãn là ngày 18-3-1973, trong danh sách trao trả có tên ông, sau hơn ba năm ở trại tù binh Cần Thơ. Từ bên phía bờ nam nhìn sang bờ bắc, phía quân đội Sài Gòn thấy hôm đó có điều không bình thường so với những ngày khác. Xe ô tô con quân sự xuất hiện nhiều hơn. Chúng nghĩ ngay là trong số tù binh trao trả hôm nay chắc có nhân vật quan trọng. Vậy là chúng cho đưa tù binh trở lại hết, trong đó có thượng tá Trân. Phía ta đấu tranh dữ dội. Hôm sau buộc chúng phải trao trả danh sách tù binh hôm qua.
 
Hôm đó, phía bờ bắc lại lặng lẽ hơn, không khác thường như hôm trước. Đến lượt trao trả, tù binh Ba Trân được xướng tên, ông vừa bước lên thì có tên sĩ quan gọi giật lại. Biết là lại có trục trặc, ông nhanh chóng lao mình xuống sông và lặn một hơi thật dài ra gần giữa dòng Thạch Hãn mới nổi lên rồi nhanh chóng bơi sang phía bờ bắc. Bên này, quân ta vội cho thuyền ra đón ông vào. Vậy là thoát. Lúc nhìn thấy xe con của ta ở bờ bắc đón và chở ông chạy vút đi, phía quân đội Sài Gòn mới phát hiện được ông chính là một sĩ quan cao cấp, biết là trao trả nhầm nhưng đã quá muộn, một sai lầm không có cơ hội sửa.
 
Chuyện về vị chỉ huy của mình như thế, làm sao mà tụi lính sinh viên chỉ biết ăn với học như tôi không khâm phục được. Ngay sau đó, quân hàm của ông được gắn thêm một sao để thành đại tá và trở thành Sư trưởng Sư đoàn 341 mà tôi là lính trinh sát của sư đoàn ông.
 
Trở lại với buổi huấn thị trước ngày ra trận của sư trưởng Ba Trân. Ông đứng nhìn cả đại đội duyệt binh đi đều trên một thửa đất trống và giơ tay lên vành mũ chào. Chúng tôi đi đều bước và nhìn ông ngưỡng mộ.
 
Kết thúc duyệt binh, đại tá Trân mới đứng trước hàng quân và hỏi: "Các đồng chí có biết vì sao phải tập đi đều? Trong chúng ta, ai cũng biết là ngày ra trận chỉ còn tính bằng giờ. Vậy việc gì phải tập đi đều cho mệt, sao không dành thời gian để tập bắn súng, lăn lê bò toài có ích hơn?". Có mấy chiến sĩ nhanh nhảu giơ tay phát biểu nhưng đều không trúng ý sư trưởng.
 
Sau cùng ông giải thích: "Đúng là vào chiến trường chả ai cần biết đi đều làm gì, chỉ cần bắn súng cho giỏi là được. Nhưng khi đi đều, người chỉ huy hô 1 là 1, hô 2 là 2, nghĩa là quân lệnh phải như sơn. Đi đều đó chính là cách để rèn luyện ý thức phục tùng mệnh lệnh của chỉ huy. Vì thế mà phải tập đi đều. Rõ chưa?". Cả đại đội đồng thanh: "Rõ!".
 
Thật là không thể chí lí hơn. Từ phút đó, trong mắt tôi, đại tá Trân không chỉ là vị chỉ huy cao nhất của sư đoàn mà hơn thế ông còn là thầy của tôi. Sau này, ông Ba Trân đã đưa cả sư đoàn chúng tôi vào tận mặt trận miền Đông Nam Bộ, sư đoàn được đổi phiên hiệu từ Sông Lam 341 thành Sư đoàn 1 trong đội hình Quân đoàn 4 do Trung tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh, đánh trận Xuân Lộc nổi tiếng, giải phóng Sài Gòn và làm quân quản thành phố cho đến ngày có chính quyền dân sự. Đại tá Ba Trân được thăng hàm thiếu tướng và chuyển làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, rồi lên Đà Lạt làm Phó giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt. Ông nghỉ hưu và mất tại Sài Gòn năm 1997, khi vừa tròn tuổi thất thập. 
 
Hàng năm, cứ đến kỉ niệm Ngày thành lập quân đội 22-12 là tôi lại nhớ về ông, đại tá Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân.
 
Hà Tùng Sơn
,