Hoàng Bình Trọng và cuộc hành trình thơ

  • 08:45 | Chủ Nhật, 07/03/2021
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Trong giới cầm bút ở Quảng Bình, nhà văn Hoàng Bình Trọng là người viết nhiều thể loại nhất (tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp văn, thơ, trường ca, câu đối), là người biết nhiều ngoại ngữ nhất (Pháp, Nga, Trung) và cũng là một trong những người đi nhiều nhất (khắp các tỉnh miền núi phía Bắc thời kỹ sư địa chất, khắp các tỉnh miền Nam thời bộ đội). Ở bài viết nhỏ này, tôi chỉ đi sâu tìm hiểu cuộc hành trình thơ của ông.
 
Nhà thơ Hoàng Bình Trọng.
Nhà thơ Hoàng Bình Trọng.

Độc giả biết đến Hoàng Bình Trọng bắt đầu từ cuốn tiểu thuyết "Bí mật một khu rừng" (in với số lượng lớn và tái bản nhiều lần) nhưng thơ mới là thể loại mà ông theo đuổi suốt đời. Ông yêu thơ và tập làm thơ từ thời đang học phổ thông. Thời học đại học Bách khoa Hà Nội, nhờ tài làm thơ báo tường mà ông lọt mắt xanh của người đẹp ngồi cùng bàn, cùng lớp. Những năm làm công tác thăm dò địa chất, đặt chân đến vùng đất mới nào ông cũng làm thơ. Bản thảo thơ chép đầy mấy cuốn sổ tay, nhưng ông chỉ đọc cho bạn bè thân nghe.

Đây là mấy câu thơ ông viết vào năm 1967: “Mới Đông Bắc, thoắt đã về Tây Bắc/Dưới chân ta đâu có những xa vời/Nơi nào còn kho tàng bí mật/Ta về chia cùng đất những niềm vui…” (Tình đất). Sau này, ông “hồi tưởng lại” cái thời gian khổ nhưng giàu ước mơ ấy: “Cứ lăm le bắt đá hóa thành vàng/Mà bát cơm ăn độn mì, độn bắp/Chẳng bao giờ dám ước chuyện giàu sang”.
 
5 năm đi bộ đội, mặc dù 4 năm chuyên giữ “chức” anh nuôi, chỉ năm cuối cùng mới trở thành “lính chiến” nhưng ông vẫn một lòng chung thủy với thơ. Thơ ông thời điểm này đã bắt đầu khởi sắc. Một số bài được anh em trong đơn vị chuyền tay nhau. Trong số đó đáng chú ý là bài "Mưa dột":
 
Nhà mẹ mới lợp xong
Chiếu giường thôi dột ướt
Các con lại lên đường
Rừng đêm đầy ánh chớp
 
Cơn mưa dần nặng hạt
Dựa cửa dõi lối mòn
Mẹ thương con thấm ướt
Thêm vai nặng đường trơn
 
Càng nghĩ lại càng thương
Mẹ thức cùng con trẻ
Mưa không ướt chiếu giường
Mà dột vào lòng mẹ.
 
Những bài thơ có tứ, cô đúc như "Mưa dột" rất hiếm. Phần lớn thơ ông lúc đó bị lấp chìm trong “dàn đồng ca” chung và không thoát khỏi cái bóng của những “cây đa, cây đề”. Phải đến những năm 80 của thế kỷ trước, khi có chủ trương đổi mới, ông và một số nhà thơ khác mới tìm cách thoát khỏi “dàn đồng ca” và thực hiện một cuộc hành trình thơ chẳng khác nào là sự lột xác. Cuộc hành trình đó bắt đầu từ việc đi tìm lại cái “tôi” đã mất: “Tơi bời trăm trận bão giông/Tôi tìm tôi giữa long đong kiếp người” (Đường thơ). Ông thú nhận từ trước đến thời điểm chưa có chủ trương đổi mới, ở ông có hai con người:
 
Khi bóng hình tôi thất lạc nhau rồi
Tôi hay nói những lời tôi không thích nói
Tôi thâm thúy để mà nông nổi
Tôi sướng vui để xiết nỗi buồn đau!
 
Cuộc hành trình đi tìm lại cái tôi của mình đối với Hoàng Bình Trọng thật không dễ dàng chút nào. Đã quen nói “những lời không thích nói”, đã quen lấy cái sướng vui giả tạo để che giấu “nỗi buồn đau”, giờ dám nói những lời mình thích, giờ dám bày tỏ “nỗi buồn đau” của lòng mình, đâu phải ngày một ngày hai có thể làm được. Ông khẩn thiết cầu cứu: “Tôi của tôi ơi! Giờ ngươi ở đâu?/Ai nhận ra tôi mách giùm tôi với” (Tìm).
 
Đến khi tìm lại được cái tôi rồi thì việc xác định con đường thơ mà mình sẽ hướng tới là vô cùng quan trọng. Bởi vì chỉ cần tính “sai một ly” sẽ đi lạc cả “một dặm”. Giai đoạn đầu, Hoàng Bình Trọng cũng “ham thanh, chuộng lạ”, nhưng rồi ông nhanh chóng nhận ra những thứ ấy không phù hợp với khí chất của mình. Thế là ông cương quyết rũ bỏ hoa sói, hoa hòe mà người đời đang hết sức ưa chuộng để tìm lối đi riêng: “Khi ta khóc thiên hạ cười/Nơi ta trân trọng, người người khinh khi”.
 
Có thể nói, thời điểm năm 1993, Hoàng Bình Trọng đã thực hiện một bước đột phá đầy may rủi. Đó là lúc ông làm Thư ký tòa soạn Văn nghệ Đất Tổ, một số lãnh đạo cảm thấy khó chịu với tính khí cương trực, thẳng thắn khác người của ông, đã tìm cách cho ông nghỉ việc với chủ trương giảm biên chế. Sẵn có máu tự ái, nhân vợ ông có quyết định nghỉ hưu non, ông dắt díu vợ con trở về Quảng Hòa (Quảng Trạch, Quảng Bình) sinh sống. Những năm đầu vô vàn cực khổ.
 
Số tiền ông nhận được khi nghỉ việc chưa đủ để dựng tạm ngôi nhà cấp 4. Đồng lương hưu non của vợ không đủ trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày. Ông phải đi vào rừng hái củi, cuốc đất trồng rau, chăn nuôi, trồng trọt... Những người phụ trách Tạp chí Nhật Lệ lúc bấy giờ vừa thương hoàn cảnh gia đình ông vừa đánh giá cao tài năng văn chương của ông nên đã trân trọng mời ông về làm.
 
Kể từ đó (1995), gánh nặng gia đình có vơi đi chút ít. Việc trở về quê hương có thể khiến ông vất vả, thiếu thốn nhưng bù lại, ông được mùa thơ. Những bài thơ ông viết thời kỳ này chân thật hơn, gan ruột hơn, sâu lắng hơn. Trong khi một số cây bút chọn hướng tiếp cận với các trường phái hiện đại, hậu hiện đại, siêu thực, tân hình thức… thì ông lại tìm về với cội nguồn dân tộc.
 
Ông tâm sự: "Ai cũng có quyền lựa chọn cho mình một lối đi, miễn có thơ hay”. Và đây là con đường mà ông lựa chọn:
 
Về cùng bãi mía nương dâu
Tìm trong bùn đất sắc màu quê hương
Về cùng đụn rạ, cây rơm
Tìm trong ải mục mùi thơm thật thà              
 
                                     (Tìm thơ)
 
Bài thơ đầu tiên ghi dấu ấn cho cuộc tìm về ấy là "Sông quê" (được ông sáng tác vào năm 1995). Ông tâm đắc với bài thơ này đến mức trong cả 3 tập thơ ông xuất bản gần đây: "Những miền ký ức" (2002), "Khúc ca cây nến" (2007) và "Cõi lặng" (2014) đều có mặt bài thơ này. Có thể xem "Sông quê" là “tuyên ngôn thơ” của ông:
 
Với ai đó sông mềm như dải lụa,
Sông trong tôi có đá đứng, đá nằm
Phía chớp biển, sóng xô thuyền nghiêng ngửa
Phía mưa nguồn, thác lũ cuốn băng băng.
 
Nhờ những năm tháng gian khổ, lăn lộn kiếm sống ở quê nhà, ông mới phát hiện: “Có vợ chồng sam kiếm ăn lầm lũi/Có con còng xe cát cũng lao đao…”. Rồi những “con trai, con trạng”, những “quả mít, quả dưa”, rồi những “củ khoai, hạt bắp…” cứ lần lượt đi vào thơ ông một cách tự nhiên. Kể từ đó, thơ ông dung nạp ngôn ngữ đồng quê mộc mạc, dân dã mà một số cây bút vốn gốc gác nông thôn đã gần như quên lãng.
 
Cũng từ những sự trở về như thế, ông mới tưởng tượng cái cảnh trở về thăm mẹ của 4 anh em liệt sỹ. Trong kho tàng thơ ca Việt Nam, hiếm có bài thơ nào viết về đề tài thương binh, liệt sĩ xúc động như "Về với mẹ" của ông: 
 
Mấy chục năm rồi, đâu ngày một ngày hai
Đừng khóc nữa, mẹ ơi! Đừng khóc nữa!
Chúng con biết quay về khi mẹ hiền đợi cửa
Trong khói hương, trong gió lay rèm
 
Trước 1945, các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Tản Đà… có những bài thơ tự trào rất hay. Ở miền Bắc từ sau 1954, may chỉ còn Tú Mỡ thỉnh thoảng mới tự trào, còn thì các nhà thơ chủ yếu làm thơ trữ tình công dân. Làm thơ tự trào đòi hỏi phải thật tự tinh, phải thật bản lĩnh, thông minh, phải là người có cá tính mạnh mẽ.
 
Hoàng Bình Trọng sau thời gian được “cởi trói” có một vài câu thơ viết theo lối tự trào khá hóm hỉnh và thâm thúy: “Tớ không có chí làm vua/Nên trời bắt tớ cày bừa ruộng văn!” (Tự trào); “Trải bao cơn túng, hồi đen/Vẫn thơ, vẫn rượu, út em rầy rà…” (Kính thưa); “Đã lầm một kiếp làm người/Thì đi cho hết trận cười bể dâu” (Tự hát)… Ông cũng có không ít những câu thơ tài hoa: “Nơi sạt lở những khúc kè hoài niệm” (Về Nhật Lệ); “Tôi tha thẩn lại lần theo ký ức/Chợt thương mình không ngủ cũng chiêm bao” (Ký ức); “Ta rót tỉnh vào mơ/Ta rót hư vào thực” (Bài ca ẩm thực)…
 
Mấy năm lại đây, nhà thơ Hoàng Bình Trọng không được khỏe, phải thuốc thang và nằm viện liên tục nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Sau trường ca "Tướng Giáp-Người anh cả của toàn quân" (được giải thưởng Trung ương Đoàn và Hội Nhà văn), ông lại xuất bản tập trường ca thứ hai "Hoàng đế Quang Trung" (với trên 1.000 câu). Hoàng Bình Trọng vẫn cần mẫn, lặng lẽ như cây nến: “Âm thầm cháy, nến âm thầm tỏa sáng/Âm thầm soi, những góc tối âm thầm”.
 
Hơn ai hết, ông nhận biết giờ đây sức đã gần tàn, lực đã gần kiệt, nhưng ông không hề tỏ ra tiếc nuối. Bởi như cây nến kia, ông đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho cái nghiệp văn chương: “Một giọt rơi một quãng đời tàn lụi/Tiếc làm chi cái kiếp phù sinh/Chỉ cần biết bao giờ nến tắt/Ấy là khi đã cháy hết mình” (Khúc ca cây nến). Và cho tới đêm Nguyên Tiêu Tân Sửu 2021, anh đã lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng.
 
                                                                     Mai Văn Hoan