Gã binh nhì và những người đàn bà "không hóa đá"

  • 07:57 | Chủ Nhật, 10/01/2021
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Chẳng ai dè truyện ngắn “Hồi ức của một binh nhì” viết năm 1993…  lại “tự dưng” thành danh xưng, giờ nói về nhà văn Nguyễn Thế Tường bao giờ người ta cũng gọi kèm “binh nhì”.
 
Thực tình thì sau 4 năm quân ngũ (1971-1975), anh lính lái xe tăng cấp 1 Nguyễn Thế Tường trở lại giảng đường đại học Tổng hợp Hà Nội với quân hàm hạ sỹ cùng thương tật 2/4. Trong những năm chiến trận, ông từng tham gia nhiều trận đánh nhưng trận “đấu tăng” diễn ra tại Cửa Việt (Quảng Trị) nửa đêm rạng sáng ngày 28-1-1973 trước giờ Hiệp định Pari có hiệu lực vẫn là trận ông hào hứng nhất. Trận đó, xe tăng mang số hiệu 704 do ông lái đã lập công lớn.Nhưng, đối phương cũng không phải không biết bắn súng...
 
Tôi gặp ông lần đầu dễ cũng hơn một phần tư thế kỷ. Hồi đó, Quảng Bình mới tái lập và về lại Đồng Hới nên còn đơn giản mọi nhẽ, Nguyễn Thế Tường hay tin có bạn học cùng Tổng hợp Văn thì vội tới chơi. Ông cẩu thả đến nỗi mỗi chân mỗi dép. Người bạn học cùng ông nhìn thấy thế nói nhỏ vào tai tôi: “Tay này lôi thôi nhưng vẫn có nhiều đứa con gái thích nó mới tài”.
Bìa sách của Nguyễn Thế Tường. Ảnh: Tiến Hành
Bìa sách của Nguyễn Thế Tường. Ảnh: Tiến Hành
Hay thật đấy, chuyện Nguyễn Thế Tường ăn vận lôi thôi nhưng được nhiều chị em “mê” thì quả là… chuyện lạ. Ừ mà chuyện lạ ấy lại có thật mới chết chứ. Có lần tôi được nghe Nguyễn Thế Tường kể: Hồi mới nhập học (năm 1969) tân sinh viên khoa Văn quê huyện Lệ Thủy, Quảng Bình đã dám thinh thích một "bóng hồng”. Có điều “Trái tim dù biết hát/Nhưng tình đời dễ đâu”.
 
Hai năm sau, chiến trường miền Nam gọi, hàng vạn sinh viên các trường đại học nhập ngũ. Tường cũng trong số đó. Nghĩ vào B chắc chín phần chết, thành cái “tóp mỡ” mà chưa có “mối tình vắt vai” thì chán quá nên gã liều viết một bức thư tỏ tình và mừng rơn khi thấy nàng hồi âm. Nhưng đọc đi đọc lại, càng đọc càng hoang mang vì giọng nàng sao nghe cứ quen quen như giọng bí thư Đoàn hay trợ lý tuyên huấn. Thế là, chàng cứ “tưng tửng” suốt 4 năm nhưng không một dòng thư, cho đến ngày trở lại trường thì... "con sáo đã sang sông”.
 
Mấy năm trước, nhà văn Nguyễn Thế Tường cùng mấy bạn sinh viên đồng ngũ trở lại thăm nơi từng đóng quân huấn luyện trước khi đi B ở thôn Cao Kiên, thị trấn Nhã Nam (Hà Bắc cũ, nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Hồi đó, có một cô gái làng hình như có cảm tình với Tường. Sau 40 năm về thăm lại đúng vào bữa “người xưa” vắng nhà. Ông cùng mọi người lên xe trở về Hà Nội với tâm trạng “buồn dâng lên mắt”. Tới Yên Viên thì chuông điện thoại rung riết róng.
 
Phía máy bên kia là một giọng đàn bà nghe quen quen. Người đàn bà ấy nói trong hơi thở gấp rằng bà vẫn giữ nguyên vẹn tấm áo chiến sỹ mà hôm chia tay ông đã tặng bà. Nguyễn Thế Tường nửa tin nửa ngờ nhưng người ấy nói rất mong ông quay lại, giọng tha thiết lắm làm ông trào lên xúc cảm thân thương. Người ấy còn nói thêm là mình đã tự tay thêu tên người tặng lên ngực áo.
 
Ông đắn đo ngờ vực khi bà ấy nói rõ ràng áo là áo bộ đội số 4 khi mà anh lính trẻ tên Tường ngày đó chỉ mặc vừa áo số 3. Rồi “người xưa” nhắc to cái tên “Hải Triều” trên áo. Nguyễn Thế Tường nghe mà ngỡ “chết ngồi”, còn anh bạn đồng ngũ, đồng môn vừa được xướng danh đang ngồi cạnh thì vội quay đi cố nhịn tiếng cười. Ông bảo: “Số mình toàn mừng hụt”.
 
Nói vui vậy thôi chứ Nguyễn Thế Tường không chỉ có cái duyên được phụ nữ “mê” mà ông luôn dành cho chị em một mối quan tâm sâu sắc. Hầu như các truyện ngắn hay tiểu thuyết của ông đều có “bóng dáng đàn bà”. “Hồi ức của một binh nhì”, truyện ngắn đầu tiên xuất bản của ông đấy, một câu chuyện về lính mà đẫm tình yêu đôi lứa.
 
Ông viết: “Chúng tôi đã đến, đã nói chuyện và dường như đã quen nhau từ lâu lắm rồi, đã tìm nhau lâu lắm rồi, dường như chúng tôi đã yêu nhau. Hai đội binh đều áp sát hàng rào kẽm gai, từng đôi một xoắn xuýt tâm sự-như chúng ta thường nói là không biết mệt mỏi. Tôi mạnh dạn cầm tay "người chiến sỹ gái" dành cho tôi. Mãi đến cuối buổi, tôi mới biết được tên thật của nàng là Nụ. Lạ lùng thay, Nụ không có ý định rụt tay lại. Cổ tay Nụ tròn và mát. Tôi nhìn rất lâu vào cái cổ tay ấy rồi ngước lên thấy Nụ cười, một nét cười hiền lành và say đắm, mà sau này suốt hai mươi năm qua tôi không hề tìm thấy bất cứ ở đâu dưới gầm trời này… Đêm ấy, khuya lắm chúng tôi mới rời nhau ra, không phải vì buồn ngủ hay mệt mỏi mà vì trời đang rạng dần…”
 
Rồi đến “Gót lữ đoàn”, một truyện ngắn hay chẳng kém gì “Hồi ức của một binh nhì”, thấy ở đó một số phận người đàn bà xuyên suốt khiến người đọc trào dâng cảm thông và chia sẻ: “Sáng sớm, chị quẩy đôi thùng đi gánh nước. Từ bao năm nay vẫn thế, cứ sáng sớm là chị đi gánh một đôi nước đủ dùng cả ngày đêm cho hai o cháu. (...) Chỉ một đoạn đường mà với cái tốc độ đi của một người đàn bà quá lứa lỡ thì, hơi ngẩn ngơ như chị cũng nhớ được, quên được khối thứ. Đầu tiên chị tự hỏi, không hiểu mình gánh nước buổi sáng như thế này đã bao lâu…”
 
Sau “Hồi ức của một binh nhì” và “Gót lữ đoàn”, Nguyễn Thế Tường lấy dòng cảm hứng chiến trận làm chủ đạo cho những trang viết của mình. Những “Người đàn bà không hóa đá”, “Lính giảng Kiều”, "Điều không thể mất”, “Trận đánh cuối cùng”, “Hai người lính”, "Vết thương không chảy máu”, “Khoa mục bị bỏ qua”... như một sự ngoái đầu nhìn về những tháng ngày “gian khổ biết bao và cũng đẹp đẽ biết bao”. Đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất trong cuộc “lãng du” không dài lắm của một đời người”.
 
Ngay cả tiểu thuyết “Bến đắng”, tác phẩm được nhận giải B Giải thưởng văn học-nghệ thuật Lưu Trọng Lư lần thứ V cũng là một tác phẩm viết về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng. Ở tiểu thuyết này, hình bóng của người phụ nữ được khắc họa như là nạn nhân của những cuộc chiến. Mối tình của người thiếu nữ miền quê với anh giáo làng bị ngắt quãng vời vợi nửa thế kỷ từ khi anh ra trận cuối năm 46 và cuộc gặp lại muộn màng giữa vị tướng hồi hưu với một bà “da mồi tóc trắng”.
 
Con gái bà yêu một anh bộ đội đi B nằm lại chiến trường, để tuổi 40 liều thực hiện “quyền làm mẹ” thì cô con gái 18 xuân thì cũng hẹn hò với một cậu lính sắp ra trấn đảo. Người đàn bà già nua buồn bã nói với người tình già: “Ba đời bà cháu em đều dính với các anh, đều làm “Bến đợi đắng đót” khăng khăng chờ mà chả được gì!”
 
Trong tất cả tác phẩm đã nêu, hiếm khi thấy Nguyễn Thế Tường phản ánh trực diện về cuộc chiến mà chỉ đơn thuần là những lát cắt thật nhỏ bên lề cuộc chiến như: số phận của người đàn bà thời hậu chiến, tình yêu nảy sinh giữa bom đạn chiến tranh hay là những ngẫm ngợi sâu xa, điều chỉ có ở những người từng tham gia chiến trận.
 
Nguyễn Thế Tường dạo này trầm rất nhiều. Gặp ông trong trại viết về đề tài “Lực lượng vũ trang-Chiến tranh cách mạng” ở Đại Lải, tôi nhắc toàn chuyện têu tếu. Nhắc thế mà thấy ông hiếm nụ cười cho dù vẫn là nét mặt xương xương ẩn dưới vành mũ phớt rất “nghệ”, hàng râu mép nhìn “điêu điêu”. Gặng mãi mới hay “cuộc chiến tranh và những gương mặt đàn bà” dù đã qua trôi hơn 40 năm nhưng nó còn “dai dẳng” trong ông, thôi thúc ông không nguôi nhắc nhớ về nó.
 
Rồi ông nhà văn “binh nhì” gỡ kính khỏi mắt để lau, trầm ngâm mấy phút rồi vẫn cúi đầu lau kính mà chậm rãi nhả từng câu một. Giọng ông khê khê, nghe hơi làng lạc, chút nước mắt rơm rớm nơi khóe mắt: “Tôi mới rồi về lại nghĩa trang xã Tân Dân (huyện Khoái Châu, Hưng Yên) để viếng người bạn cùng kíp xe tên là Hoa Xuân Toàn. Anh ấy là pháo thủ. Xe 704 của chúng tôi bị tăng đối phương bắn trúng tháp pháo, bốc cháy. Tôi là lái xe ngồi thấp lại ngay trước đầu xe nên dính ít mảnh đạn.
 
Cái chết đã “buông” tôi nhưng 4 đồng đội đã hy sinh”. Nguyễn Thế Tường nghèn nghẹn: "Tôi ngỏ lời muốn lập tấm bia ghi chiến công của bạn nhưng người em của anh Toàn đã trầm giọng nói một câu khiến tôi ngộ ra nhiều điều: “Thôi anh ạ, có bao nhiêu người mẹ khóc con, em trai khóc anh, như em!”.
 
Nguyễn Thế Tường lại cúi đầu lau kính, dường như ông đang trở về với dòng hồi ức chiến trận xa xăm, trở về với những người đàn bà “không hóa đá” của mình.
 
Nguyễn Trọng Văn