Có một tượng đài mẹ Suốt bằng thơ

  • 08:31 | Thứ Năm, 23/04/2020
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Tượng đài mẹ Suốt bằng đá cạnh bờ sông Nhật Lệ (gần chợ Đồng Hới) nhiều người đã thấy, nhưng để tạo nên một tượng đài bằng thơ về mẹ trong lòng người đọc thì hầu hết mới biết qua bài thơ "Mẹ Suốt" của nhà thơ Tố Hữu, trong khi đó thơ ca ngợi mẹ từ trước đến nay khá nhiều bài. Từ từng góc độ khác nhau, mỗi nhà thơ có cách nghĩ riêng của mình, góp một “viên gạch thơ” xây tượng đài mẹ Suốt.
 
Nhà thơ Trúc Chi cho ta tận mắt chứng kiến ngôi nhà của mẹ ở thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh ngày nào:
        Nhà mẹ Suốt ở đầu thôn
Nắng vào ấm cát trong sân mùa hè
       Ngõ ngoài cài mấy thân tre
Vài cành hoa biển vàng hoe góc rào
        Một chum nước ngọt trong veo
Đường ra giếng nhỏ còn leo bậc ghềnh
Đó là tổ ấm gia đình mẹ, nhờ cách mạng mà có, còn tuổi thơ và tuổi xuân thì như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Lớn lên ở bốn cửa người/Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua." Có nghĩa là hơn 12 năm làm con ở, làm thuê cho nhà giàu, đến khi lấy chồng thì “Tám lần đẻ, mấy lần sa”, khổ hết chỗ nói! Thế nhưng, mẹ vẫn sống lạc quan sau mỗi lần làm xong nhiệm vụ đưa đò, trở về với ngôi nhà thân yêu của mình:
       Mẹ về sau những chuyến đò
Hiên nhà rộn rịp đường tơ giăng hàng
                                           (Nhà mẹ Suốt-Trúc Chi)
 Tượng đài mẹ Suốt bên sông Nhật Lệ. Ảnh: Đ.V
Tượng đài mẹ Suốt bên sông Nhật Lệ. Ảnh: Đ.V
Nhà thơ Nguyễn Đình Hồng ca ngợi mẹ là "Bà mẹ Hải quân", coi mẹ như là một chiến sỹ Hải quân thực thụ. Hình ảnh con đò của mẹ hiện lên trong thơ ông thật sống động:
Tuổi sáu mươi tâm hồn lan sóng biếc
Đồng Hới-Bảo Ninh đôi bờ thân thiết
Chiếc đò con của mẹ bắc cầu sang
Đò hướng theo từng nhịp pháo phòng không
Trăm con sóng nâng đò lên phía trước
Lòng khoang con chở đạn nhỏ, đạn to
Lao qua lửa và bom tung cột nước
Nhà thơ Trần Nhật Thu, người con rể của đất Bảo Ninh còn cho người đọc biết cụ thể:
Bến đò này ngày xưa không có tên
Chỉ động cát rừng dương che mắt giặc
Khách qua sông nay gọi thầm tên mẹ
Lái con đò dưới tầm đạn bom
Mẹ đưa xã viên đi làm nương
Đưa bộ đội vào tiền phương
Trăm lối mòn họp bến
                                 (Bến đò mẹ Suốt-Trần Nhật Thu)
Trong bài thơ "Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam", nhà thơ Huy Cận cũng đã dành cho mẹ câu thơ đầy kiêu hãnh:
Chèo mẹ Suốt vang sông, chị Khíu giành lại biển
Gái Quảng Bình phí khách đọ Trường Sơn
Nhà thơ Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị đã có thơ về mẹ như sau:
       Trời khuya bến nước mênh mông
Đạn bom trút xuống, dòng sông căm thù
      Vững chèo lướt sóng tới bờ
Mẹ đưa con đến kịp giờ xuất quân
...
       Giữa làn bom đạn, xông pha
Thương con, thương nước thiết tha cháy lòng
                                                                    (Nhớ Mẹ)
Con đò và mái chèo vừa là phương tiện hoạt động của mẹ vừa là hình ảnh biểu trưng cho phí phách anh hùng của mẹ. Chả thế mà nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút viết:
Đêm thắng giặc, Bảo Ninh mẹ Suốt ngâm Kiều
Mẹ đâu dám quên cái thuở khổ nghèo
…..
Nhật Lệ sông dài đò mẹ lại qua
Một mái chèo trong lửa đạn xông pha
                                (Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ)
Nhà thơ Xuân Hoàng còn mở rộng liên tưởng ra thế giới:
Cả thế giới biết con đò mẹ Suốt
Một con đò soi bóng vạn dòng sông
                    (Mẹ Suốt, mùa xuân và bó hoa của Bác)
Nhà thơ Cẩm Lai cảm nhận về tình cảm của mẹ đối với bộ đội: “Tất cả các con đều là con mẹ/Tình mẹ bao la trời biển một màu” (Mẹ Bảo Ninh).
Yêu quý bộ đội quên mình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là thể hiện lòng yêu nước! Mẹ Suốt xuất phát từ tình yêu Tổ quốc, yêu quê hương mà có những việc làm đầy ý nghĩa; có sức lan tỏa lớn đến mọi người. Vì thế mà khi mẹ bị bom Mỹ sát hại, ai cũng thương xót mẹ. Trong bài thơ "Mẹ vẫn đưa đò", nhà thơ Văn Lợi khẳng định:
Mẹ không còn đưa đón khách sang
Người qua bến thương mái chèo quen thuộc
Mẹ mãi sống trong lòng đất nước
Giữa dòng xanh lịch sử Việt Nam
Có nhiều bài thơ nữa ca ngợi mẹ, song tôi muốn dừng lại phân tích bài thơ "Mẹ Suốt" của Tố Hữu để thấy rõ toàn vẹn bức chân dung mẹ. Cái tài của Tố Hữu là biết xích lại gần mẹ, kéo mẹ lại gần phía mình và người đọc, nghe mẹ kể về cuộc đời thăng trầm của mẹ trên mảnh đất Bảo Ninh (Quảng Bình):
      Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
       Mẹ rằng: quê mẹ, Bảo Ninh
Mênh mông sóng biển lênh đênh mạn thuyền
Tố Hữu lấy quê hương làm nền để xây tượng đài mẹ. Hình ảnh “nắng trưa, chang chang cồn cát” và “mênh mông sóng biển lênh đênh mạn thuyền” rất ấn tượng. Từ trên cái nền quê hương ấy tác giả cho hiện lên một mẹ Suốt ngày còn bé trong bóng đêm nô lệ thật tội nghiệp:
       Sớm chiều, nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín, mười
       Lớn đi ở bốn cửa người
Mười hai năm lẻ một thời xuân qua
Thân phận làm vợ, làm mẹ cũng thật là gian truân:
      Lấy chồng, cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa tội tình!
      Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa…
Chính từ nỗi khổ cực ấy mà mẹ ý thức sâu sắc quyền được làm người, được sống trong một chế độ xã hội tự do, hạnh phúc:
    Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng thuyền ra thuyền vào
     Bây chừ biển rộng trời cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Mẹ không chịu thua chồng trong việc tham gia chống Mỹ cứu nước:
        Ông nhà theo bạn “xuất quân”
Tui nay cũng được vô chân “sẵn sàng”
       Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Lấy tinh thần thằng Pháp để đánh Mỹ, Mẹ bất chấp tuổi tác, không sợ gì sóng gió, đạn bom giặc:
      Sợ chi sóng gió, tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua
        Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng! 
Tố Hữu để mẹ hiện lên trong thơ mình thật đẹp và kỳ vĩ:
      Ngẫng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ
Vừa chiêm ngưỡng mẹ, nhà thơ vừa đối thoại với mẹ như một nhà báo phỏng vấn bằng thơ và mẹ cũng trả lời bằng thơ với nhà thơ trong vai nhà báo.
Nhà thơ hỏi:
Gan chi gan rứa mẹ nờ?
Mẹ trả lời:
Mẹ rằng: cứu nước mình chờ chi ai
       Chẳng bằng con gái con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
      Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò…
Nhà thơ lại hỏi:
Ghé tai mẹ, hỏi tò mò:
- Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ lại trả lời:
      Mẹ rằng: Nói cứng phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
      Nghe ra ông cũng vui lòng
Tui đi còn chạy ra sông dặn dò:
     “Coi chừng sóng lớn gió to
Màn xanh đây mụ đắp cho kín mình!”
Người đọc nghe hai người đối đáp với nhau thật thú vị. Từng câu hỏi và câu trả lời đều sử dụng phương ngữ Quảng Bình: Tui, chi, rứa, cớ răng, nờ… làm rõ hơn đặc điểm vùng quê và tính cách của mẹ.
Cái kết của bài thơ đã mang đến cho người đọc sự ngất ngây khoái cảm:
         Vui sao câu chuyện ân tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say
Nghệ sỹ Châu Loan với chất giọng đặc biệt, đã ngâm bài thơ này, phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, khiến ai nghe cũng thích! Mẹ Suốt cứ thế đi vào lòng người với niềm yêu kính. Nhân dân đã tạc tượng mẹ trong lòng mình nhờ hình tượng mẹ trong thơ của các nhà thơ!
 
Lý Hoài Xuân