.
Chào mừng Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình lần thứ II:

Miền biên viễn... xa hóa gần! - Bài 1: "Cú hích" kỳ diệu

Thứ Sáu, 05/09/2014, 14:56 [GMT+7]

(QBĐT) - Quảng Bình có 17 xã miền núi, vùng sâu vùng xa có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thuộc các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy. Lấy mốc thời gian cụ thể trong vòng khoảng 10 năm để làm một phép so sánh mới thấy hết sự thay đổi diệu kỳ của những vùng đất khốn khó, cách trở này. Điện, đường, trường, trạm, chợ... được đầu tư khang trang. Đời sống nhân dân, trong đó chiếm phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, từ xuất phát điểm đói nghèo, lạc hậu, thất học nay chuyển mình. Miền biên viễn... xa hóa gần!

Ảnh 1 : Đồng chí Lương ngọc Bính, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh tặng quà cho đồng bào Khùa, bản Lòm, xã Trọng Hoá
Ảnh 1 : Đồng chí Lương ngọc Bính, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh tặng quà cho đồng bào Khùa, bản Lòm, xã Trọng Hoá

Tôi vốn có nhiều chuyến đồng hành cùng ông Đặng Văn Đệ, nguyên Trưởng ban Dân tộc tỉnh đến với đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Bình. Có thể khẳng định rằng trên dãy đại ngàn Trường Sơn, nơi cư trú của đồng bào, chẳng còn “hang cùng, ngõ hẻm” nào chưa ghi dấu chân ông.

Tâm huyết, gắn bó cùng dân tộc, ông chân tình: “Đồng bào mình nghèo đói, thất học, chịu nhiều thiệt thòi do hậu quả chiến tranh… không còn sức lực gượng dậy chứ đừng nói vươn lên, để chiến thắng đói nghèo, thất học, mù chữ.  Một “cú hích” mạnh bằng đầu tư điện, đường, trường, trạm… để hình thành nên các bản làng mới định canh, định cư lâu dài là việc làm hết sức cần thiết...".

Chúng ta thử hình dung về bức tranh toàn cảnh cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Bình. Làm nền cho bức tranh sống động nhưng thiên về màu xám đó là không gian rộng lớn của đại ngàn Trường Sơn khởi đầu từ giáp tỉnh Quảng Trị qua 3 xã Lâm Thủy, Ngân Thủy, Kim Thủy (Lệ Thủy) đến Trường Sơn, Trường Xuân (Quảng Ninh) qua Tân Trạch, Thượng Trạch (Bố Trạch) ngược lên Thượng Hóa, Hóa Sơn, Trọng Hóa, Dân Hóa (Minh Hóa) và ra Lâm Hóa, Thanh Hóa, Thạch Hóa (Tuyên Hóa) giáp với Hà Tĩnh.

Bản Km 61 của đồng bào dân tộc Ma Coong, xã Thượng Trạch (Bố Trạch).
Bản Km 61 của đồng bào dân tộc Ma Coong, xã Thượng Trạch (Bố Trạch).

Đồng bào gồm hai nhóm dân tộc thiểu số chính là Bru- Vân Kiều và Chứt, dân số khoảng 22.000 người. Dân tộc Bru- Vân Kiều có các tộc người: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong. Dân tộc Chứt gồm người Sách, Rục Mày, A Rem, Mã Liềng. Ngoài ra còn có một số thành phần dân tộc khác như Mường, Thổ, Pa Cô, Ca Rai với khoảng 200 người.

Câu chuyện của 10 năm trước, mấy ai dám mơ rằng từ thành phố Đồng Hới đi công tác lên với các xã vùng cao phía tây Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Minh Hóa... về được trong ngày, xe ô tô vào tận trung tâm cụm xã, thậm chí tận bản, sát dưới chân nhà sàn của đồng bào? Bây giờ mơ ước đó đã thành hiện thực.

Rồi đồng bào xưa ngóng về xuôi mong ánh điện văn minh lên cùng bản làng, nay 88% xã với 80% hộ dân dùng điện lưới quốc gia. Và nữa, sóng truyền hình, internet, điện thoại, sóng di động... không còn xa lạ gì với người dân vùng sâu, vùng xa. Người Rục, người A Rem một thời bám hang, bám rừng, cận kề nguy cơ tuyệt chủng; người Vân Kiều, Mày, Ma Coong từ tập quán du canh, du cư, sản xuất theo lối “chặt, đốt, cốt, trỉa” giờ làm quen với lúa nước. Những cánh đồng lúa nước Rục Làn (Thượng Hóa), Ka Ai (Dân Hóa), Khe Dây, Lâm Ninh (Trường Xuân), Sắt, Trung Sơn (Trường Sơn), Khe Giữa (Ngân Thủy), Xà Khía, Tân Ly (Lâm Thủy)... cho đồng bào hạt gạo trắng trong.

Dù chưa đủ no ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm, nhưng thực sự là niềm tự hào của chính tay người trồng lúa, của những người không quản nắng mưa, bám bản, bám dân đưa mô hình lên cắm bản vững chắc...

Đồng bào Vân Kiều bản Khe Giữa, xã Ngân Thủy đã quá quen thuộc với cây lúa nước.
Đồng bào Vân Kiều bản Khe Giữa, xã Ngân Thủy đã quá quen thuộc với cây lúa nước.

Tôi thử điểm lại những “cú hích” diệu kỳ làm thay đổi hẳn bộ mặt của miền biên viễn xa xăm. Ngoài các Chương trình 135; Quyết định 134, 167; Nghị quyết 30a/CP; Dự án định canh định cư; chính sách vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số... thì Chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2006-2009 đã có mức hỗ trợ lên đến 591.069 triệu đồng. Giai đoạn 2009-2014, đồng bào tiếp tục được hưởng lợi từ các chương trình, dự án trên thêm 230.000 triệu đồng nữa.

Bên cạnh đó công tác giao đất, giao rừng cho đồng bào bước đầu triển khai rất hiệu quả, trên 2.600 hộ dân nhận 2.200ha đất sản xuất nông nghiệp; 2.500 hộ nhận 5.500ha đất rừng. Từ năm 2009 đến nay, hơn 1.000 hộ đồng bào được hỗ trợ sửa chữa, làm mới về nhà ở; 1.500 lao động dân tộc thiểu số qua đào tạo nghề. Nếu năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số trên 69% thì hiện tại giảm xuống còn 51%.

Trong chuyến hành trình lên với đồng bào dân tộc thiểu số đầu tháng 8-2014 vừa qua, ông Đặng Thái Tôn, Trưởng ban Dân tộc tỉnh tâm sự rằng: “Ngoài sự thay đổi mạnh mẽ về kinh tế, tập quán canh tác. Cái được nhất mà đồng bào sở hữu là con em họ được đến trường. 100% xã miền núi hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học, 95% xã xong phổ cập THCS.

Năm học 2013-2014, trên 5.500 học sinh con em dân tộc từ bậc tiểu học đến trung học cơ sở theo học tại các trường công lập. Toàn tỉnh có 5 trường dân tộc nội trú, tiếp nhận 1.200 học sinh dân tộc thiểu số. Đến nay, 115 con em đồng bào thi đỗ và theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Người Rục, Ma Coong, Mã Liềng... tự hào vì trước đây thất học, mù chữ mà nay con em mình xong đại học, ra trường có công ăn việc làm, cống hiến cho bản làng, quê hương”.

Đặc biệt, 700 hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã có kinh tế khá giả, trong đó 500 hộ thu nhập khoảng 30 triệu đồng/năm; 200 hộ thu nhập trên 70 triệu đồng/năm... là những con số thống kê khá tròn trịa, nhưng tôi tin giữa đại ngàn Trường Sơn sẽ còn nhiều, nhiều gia đình “ăn nên làm ra” hơn thế nữa.

Trong khoảng thời gian gần một tháng trời, tôi đã đi và gặp họ, những bông hoa đa sắc màu giữa một rừng hoa đẹp: Hồ Soa, Hồ Văn Thương, Hồ Văn Pan, Hồ A Lai, Hồ Văn Ngọ, Đinh Hợp, Hồ Thị Lan, Hồ Thị Thanh, Y Quyết... dân tộc Bru-Vân Kiều; Cao Duy Ư, Hồ Viên, Đinh Rầu, Y Đan, Cao Tiến Thuỳnh... dân tộc Chứt.; Bàn Văn Sơn dân tộc Thổ.

Kinh tế phát triển, những nét đẹp văn hoá của đồng bào cũng được khôi phục, tôn vinh.
Kinh tế phát triển, những nét đẹp văn hoá của đồng bào cũng được khôi phục, tôn vinh.

Hơn 10 năm, những “cú hích” từ phía Nhà nước, từ tỉnh đã thực sự đánh thức những tiềm năng, thế mạnh sẵn có ở miền núi. Đồng hành cùng đồng bào dân tộc thiểu số, một vai Ban Dân tộc tỉnh, Bộ đội Biên phòng tỉnh gánh vác phần nhiều.

Cũng theo lời ông Đặng Thái Tôn, Trưởng ban Dân tộc tỉnh: “Những thành tựu đạt được về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh tại 17 xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước về chính sách đại đoàn kết dân tộc. Kết cấu cơ sở hạ tầng miền núi, vùng sâu vùng xa như: điện, đường, trường, trạm, chợ... là điều kiện cần cho đồng bào xây dựng cuộc sống mới.

Tiếp theo, để giúp đồng bào phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nhà nước tiếp tục hỗ trợ vốn; có cơ chế, chính sách vay vốn ưu đãi; giao đất, giao rừng; chuyển giao khoa học kỹ thuật, giống cây trồng vật nuôi...

Hiện tại, chúng ta đang triển khai tám chương trình trong thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh: hương trình 135; chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt cho đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo; chính sách định canh định cư; chính sách vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất; chính sách đầu tư cho các xã biên giới; chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số và chính sách cấp không thu tiền một số báo, tạp chí tuyên truyền...”. Hành trình gần lại với nhau, thu hẹp khoảng cách giữa miền núi miền xuôi đã thênh thênh rộng mở.

Đồng bào mỗi nơi, tùy tộc người mà lựa chọn cho mình những con đường phù hợp. Những lối đi ngắn, những con đường dài cuối cùng cũng chung điểm đến: chiến thắng đói nghèo, xây dựng làng bản văn minh, giàu đẹp hơn.

Ngô Thanh Long