.

Những điểm mới về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 2013

Thứ Ba, 18/03/2014, 06:28 [GMT+7]

(QBĐT) - Hiến pháp là đạo luật gốc của nhà nước, là văn bản pháp lý thể hiện sự ủy quyền của nhân dân cho nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân. Do đó, quy định về mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, quy định về sự phân công (nhiệm vụ, quyền hạn), sự phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của hiến pháp.

Chính vì vậy mà, các nhà khoa học pháp lý thường gọi Luật Hiến pháp là Luật Nhà nước. Trong Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều thì đã có đến 6 chương, 50 điều quy định về tổ chức bộ máy nhà nước. Ngoài các quy định trực tiếp thì các nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động và trách nhiệm của nhà nước (thông qua các cơ quan trong bộ máy nhà nước) đối với mọi cá nhân, cộng đồng xã hội còn được thể hiện xuyên suốt trong quy định tại hầu hết các chương, điều khác của Hiến pháp.

Hiến pháp 2013 tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992, đồng thời đã quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp 2013 cũng đã xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Những điểm mới cơ bản trong quy định về tổ chức bộ máy nhà nước đó là:

- Đối với Quốc hội: Hiến pháp bổ sung quyền của Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây là quy định làm rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Quy định rõ và hợp lý hơn thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ các loại điều ước quốc tế.

Cụ thể đó là những điều ước liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của quốc gia tại các tổ chức quốc tế, điều ước quốc tế về quyền con người. Thiết lập thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định. Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc quyết định điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Về chế định Chủ tịch nước: Hiến pháp 2013 đã làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Trong mối quan hệ với cơ quan tư pháp, đã làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội; đồng thời đã bổ sung thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác.

Hiến pháp đã bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước Quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền; thống lĩnh lực lượng vũ trang, làm Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Về Chính phủ: Ngoài những nội dung kế thừa Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định phân quyền rõ, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Để bảo đảm cho Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền. Phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; ký kết, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ. Để xác định rõ trách nhiệm của các thành viên trong Chính phủ, Hiến pháp đã quy định rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ; quy định các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân, báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý.

- Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: Thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định xác định rõ thẩm quyền của Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp đã sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân theo hướng không xác định cấp cụ thể trong Hiến pháp mà để luật quy định phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và Hội thẩm; bổ sung và làm rõ hơn nguyên tắc khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát.

- Về chính quyền địa phương: Hiến pháp năm 2013 không sử dụng tên Chương IX của Hiến pháp 1992 mà đổi thành Chính quyền địa phương, đồng thời quy định khái quát về phân chia đơn vị hành chính. Về tổ chức, thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương sẽ do Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định cụ thể. Về địa vị pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương, cùng với việc kế thừa quy định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định, trong trường hợp cần thiết chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó; đồng thời sắp xếp lại và làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của HĐND và UBND để phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương.

Phạm Thái