.

Văn học Quảng Bình trong 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới

Thứ Sáu, 16/09/2016, 14:04 [GMT+7]

(QBĐT) - Từ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12-1986) đến nay, đất nước ta đã trải qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Đồng hành cùng toàn Đảng, toàn dân, văn học Quảng Bình đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội, từng bước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết 23 của Bộ chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Khi công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng bắt đầu, Bình Trị Thiên đang còn hợp nhất. Sức sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ là người Quảng Bình thời kỳ này đã có sự bùng phát.

Thơ của các nhà thơ Quảng Bình từng nổi tiếng trên thi đàn đất nước trong những năm chống Mỹ cứu nước, tiếp tục cuộn chảy trong những năm đầu đổi mới. Đó là Nguyễn Văn Dinh với 2 tập “Lá mướp lá bàng” và “Chút mặn mòi”; Hoàng Vũ Thuật với 3 tập “Gửi những ngọn sóng”, “Giàn bí đỏ” và “Thế giới bàn tay trái”; Lý Hoài Xuân với 2 tập “Những đám mây mùa hạ” và “Phượng hoa vàng”; Hải Kỳ với “Ngọn gió đi tìm” và “Đồng vọng”. Ngô Minh với "Chiếc lá biết đi” và “Chân dung tự họa”. Mai Văn Hoan với “Ảo ảnh”...

Sự xuất hiện của văn xuôi tuy chậm và thưa thớt hơn, nhưng vẫn chứng tỏ được sức sáng tạo của các nhà văn người Quảng Bình. Sau 10 năm, kể từ khi hai tập tiểu thuyết “Đường qua làng Hạ” và “Đường giáp mặt trận” của Nguyễn Khắc Phê, hội viên Hội Văn nghệ Quảng Bình ra đời năm 1976, trong năm đầu đổi mới, Kim Cương đã cho ra đời tiểu thuyết “Người quy phục Hoàng đế” với số bản in hiếm có 60.300 cuốn được bạn đọc mua hết, đồng thời cho ra tập truyện “Điều hắn chưa tính đến” và in chung với Phạm Xuân Lục, Phan Văn Sừng tâp “Cuộc săn đuổi bí mật”; Văn Lợi với 2 tập truyện ngụ ngôn: “Phần thưởng muôn đời” và “Nếu có thể cười được”; Đinh Duy Tư với tập truyện ngắn: “Người gác sau chiến tranh”; Nguyễn Quang Lập với tiểu thuyết “Những mảnh đời đen trắng”...

Ngoài các tập thơ, tập văn xuôi được các nhà xuất bản công bố, các nhà văn, nhà thơ là người Quảng Bình trong Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên còn có hàng chục tác phẩm thơ và văn xuôi được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương.

Tác phẩm của hội viên Hội văn học - nghệ thuật Quảng Bình.     Ảnh: P.V
Tác phẩm của hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Bình. Ảnh: P.V

Tháng 7 năm 1989, Quảng Bình được tái lập. Trong 10 năm đầu tái lập tỉnh, hội viên văn học đã cho ra đời 31 đầu sách văn xuôi, 46 tập thơ, hơn 10 tập san Văn nghệ Quảng Bình và 50 số tạp chí Nhật Lệ. Đó là một con số khá lớn, có thể nói là rất lớn trong hành trình văn học của tỉnh nhà từ trước cho đến thời điểm đó.

Về Thơ, có thể kể đến: Xuân Hoàng với 4 tập: “Thời gian và khoảng cách”, “Nỗi niềm trao gửi”, “Thơ tình gởi Huế” và tự truyện “Âm vang thời chưa xa”. Nguyễn Văn Dinh với 5 tập: “Hoa quê Bác”, “Tự tình”, “Giàn thiên lý”, “Hai ngọn sóng và “Lời dã tràng”. Hoàng Vũ Thuật với “Cỏ mùa thu”. Văn Lợi với “Quạ tập hót” và “Thơ tình Văn Lợi”. Lý Hoài Xuân với “Giữa hai người”, “Gió cát” và “Bầu trời hoa”. Hải Kỳ với “Nằm đếm trời sao”...

Về văn xuôi có rất nhiều tác phẩm và nhiều hội viên văn học mới như: Hữu Phương với “Con người thánh thiện”, “Đêm hoa quỳnh nở” và “Hoa cúc dại”; Hoàng Thái Sơn với “Nơi bắt đầu có gió” và “Mầu nhiệm tháng ngày”; Nguyễn Thế Tường với “Hồi ức của một binh nhì”, “Gót lữ đoàn” và  “Đường về quê”. Hoàng Bình Trọng với “Vầng trăng cuộc đời”, “Quê hương” và “Cuộc săn đuổi vàng”; Nguyễn Thúc Hà với “Trăng sáng băng trời biếc xanh”, “Trên dòng Nhật Lệ” và “Mỹ nhân cổ”; Nguyễn Quang Vinh với “Hồi ức màu đỏ”...

Bên cạnh những hội viên có những tập sách xuất bản, còn khá nhiều hội viên thường xuyên có tác phẩm được đăng tải trên các báo, đài của Trung ương và địa phương. Dù chưa thành hình và còn mỏng manh, nhưng công tác nghiên cứu lý luận phê bình văn học cũng bước đầu xuất hiện, với nhiều bài viết của Lương Ngọc Bính, Hoàng Thái Sơn, Hoàng Vũ Thuật, Diệp Minh Luyện, Đặng Mai Hồng...

Có thể nói, trong 10 năm đầu tái lập tỉnh, số lượng, nội dung và chất lượng văn học từng bước được nâng cao. Mỗi tác giả tiêu biểu đã có phong cách riêng, không ai lẫn vào ai, nhưng đều mang cốt cách văn học của một vùng đất. Dù sáng tác về đề tài lịch sử và chiến tranh cách mạng, hay những vấn đề xảy ra hôm nay, các tác phẩm đều mang hơi thở và dấu ấn Quảng Bình, đều hướng tới chân - thiện - mỹ và tinh thần nhân văn lâu dài. Các nhân vật trung tâm trong các tác phẩm tiêu biểu cho tính cách con người Quảng Bình. Đó là những con người anh dũng kiên cường trong chống giặc và chống thiên tai; cần cù, chịu khó trong xây dựng lại quê hương; dám nghĩ, dám làm, luôn vươn tới cái đẹp, cái mới cao cả.

Tháng 8-1998, Phân hội văn học bao gồm cả nghiên cứu văn nghệ dân gian đã tiến hành Đại hội lần thứ nhất, do nhà văn Kim Cương làm trưởng Phân hội và tháng 9-1999, Chi hội nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình được thành lập do nhà văn Hữu Phương làm Chi hội trưởng. Chuyên ngành văn học đã không ngừng phát triển thêm nhiều hội viên mới và được rất nhiều hội viên của các chuyên ngành khác tham gia sáng tác các tác phẩm văn học. Từ số hội viên có thể đếm trên đầu ngón tay trong những năm đầu tái lập tỉnh, đến nay đã có trên 150 hội viên sáng tác văn học.

Trong phạm vi một bài viết, không thể tôn vinh hết hơn 260 lượt tác giả có sách xuất bản trong 18 năm qua, nhưng có thể kể đến một số tác giả và một số tác phẩm tiêu biểu như: Hoàng Bình Trọng với 4 tiểu thuyết “Tổ chim trên sóng”, “Về với mẹ”, “Bí mật một khu rừng”, “Thức tỉnh” và 2 trường ca viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quang Trung. Nguyễn Quang Vinh với 4 tiểu thuyết “Đêm thức”, “Người thất bại trở về”, “Người và dã thú” và “tiếng gọi phía đất liền”. Hoàng Văn Bàng với 3 tiểu thuyết “Ảo giác”. “Gã phiêu lãng” và “Uẩn khúc”. Kim Cương với bộ ba tiểu thuyết “Người quy phục hoàng đế”. “Hoa dạ hương”, “Tiếng nổ sau chiến tranh” và tập ký sự “Đường qua tuyến lửa” dày 650 trang. Hoàng Thái Sơn với 2 tiểu thuyết “Lửa của cỏ”, “Những mái đầu xanh” và nhiều tập truyện ngắn. Hữu Phương với 2 tiểu thuyết “Chân trời mùa hạ”, “Tiếng nổ bên thiên đường” và nhiều tập truyện ngắn. Nguyễn Thế Tường với tiểu thuyết “Bến đắng” và nhiều tập truyện ký. Về thơ, có thể kể đến: “Thơ tình Xuân Hoàng”, “110 bài thơ tứ tuyệt về Bác Hồ” của Nguyễn Văn Dinh; “Tháp nghiêng” và “ Mùi” của Hoàng Vũ Thuật; “Tình mẹ” của Văn Lợi; “Ngày không ngờ” của Nguyễn Bình An; Trường ca “Đồng Hới khúc huyền tưởng” của Thái Hải; Trường ca về Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quang Trung của Hoàng Bình Trọng; Trường ca “Âm vang Cự Nẫm” của Trần Hải Sâm; Trường ca về Nguyễn Du của Lý Hoài Xuân.

Công tác lý luận phê bình văn học từng bước phát triển và nâng cao. Tư tưởng văn học truyền thống của cha ông được quan tâm nghiên cứu. Phê bình văn học trong thời kỳ đổi mới có tác dụng tích cực đối với sáng tác, phát hiện cái tốt, ủng hộ cái mới, tiến bộ trong hoạt động sáng tạo. Nếu như, trong mấy chục năm trước đây, chúng ta chỉ có vài người, với một số ít bài viết đăng trên các báo, thì giờ đây đã có nhiều tập sách lý luận phê bình văn học dày dặn ra mắt bạn đọc, như “Thơ Hoàng Vũ Thuật – nhìn từ thi pháp học Roman Jakobson”, “Bản sonat thi ca” và “Tiếng vọng đa thanh” của Hoàng Thụy Anh. “Văn chương tìm và gặp” của Hoàng Vũ Thuật. “Cảm nhận dọc đường văn học” của Tạ Đình Nam... Nhiều cuộc hội thảo về thơ văn được tổ chức...

Qua 4 lần xét trao giải Lưu Trọng Lư, văn học tỉnh ta đã có 55 tác phẩm đoạt giải. Cũng trong 30 năm đổi mới đất nước, rất nhiều tác phẩm của hội viên chuyên ngành văn học đã được các cấp, Hội đồng các giải thưởng và các cuộc vận động tặng giải thưởng.

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng đã giành nhiều thành tựu to lớn, mở ra cho văn học Quảng Bình nhiều cảm xúc mới và trách nhiệm mới trong sáng tạo. Trên chặng đường mới, chắc chắn văn học tỉnh nhà sẽ phát triển mạnh mẽ hơn, sáng tác được nhiều tác phẩm tốt hơn phục vụ quê hương - đất nước và nhân dân.

Kim Cương