.

Mùa giáp hạt

Thứ Bảy, 18/04/2015, 14:31 [GMT+7]

(QBĐT) - Tôi nhận ra mùa giáp hạt đang gõ cửa nhà mình khi nghe tiếng chiếc bơ đong gạo của bà cọ xát vào đáy chum sành vang lên loạc xoạc trong gian bếp nhỏ. Chiều chiều, bà vừa đứng lom khom vo gạo bên giếng khơi, vừa nhìn về phía cánh đồng đang thì con gái mà đôi mắt sâu trũng âu lo. Sớm nhất thì cũng tầm một tháng rưỡi nữa mới đến vụ thu hoạch mới.

Mùa giáp hạt về, nồi cơm độn toàn khoai sắn. Bà nghẹn ngào nói với đàn cháu nhỏ: “Sắp hết gạo rồi, các cháu ráng chịu khổ một chút. Hồi bà còn bé như các cháu, đến mùa giáp hạt, ngay cả khoai sắn cũng không có mà ăn...” Nghe bà kể, tôi chợt nhớ về nạn đói năm 1945 mà trong tiết học Lịch sử mấy hôm trước, thầy giáo đã tái hiện rất chi tiết. Đời bà khổ từ lúc lọt lòng cho tới tận về già, khi đã gần bước sang tuổi tám mươi vẫn còn chịu cảnh bần hàn, cơ cực. Thương bà, sau bữa cơm, tôi dặn đứa em không được vòi vĩnh, làm nũng bà.

Ảnh minh họa (internet)
Ảnh minh họa (internet)

Rồi thì gạo trong chum hết sạch, bà phải tất tưởi mang rá sang nhà bên vay gạo. Dù gạo trong chum cũng đã vơi cạn, nhưng chẳng chút đắn đo, bà hàng xóm vẫn niềm nở cho bà tôi vay mấy bát gạo liền, lại còn cho thêm khúc cá đồng kho mặn.

Bao đời nay, người dân nghèo quê tôi vẫn luôn san sẻ từng miếng cơm, manh áo với nhau để cùng vượt qua những mùa giáp hạt khó khăn, chật vật. Đến những lúc thế này mới càng thấm thía hơn sự gắn kết của tình làng nghĩa xóm trong câu tục ngữ: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần.”

Những ngày tiếp đó, để tiết kiệm chút gạo ít ỏi mới vay được, bà cháu tôi đành phải ăn cháo rau má trộn với muối lạc, ba phần gạo, đến bảy phần là rau má thái nhỏ. Nuốt thìa cháo nóng vào lòng rồi mà cổ họng vẫn còn đắng đót. Đứa em tôi không quen ăn cháo rau má nên nôn thốc, nôn tháo. Bà thương trào nước mắt, liền buông đũa, lật đật nhóm bếp nấu cơm cho em.

Đêm nằm bên bà, tôi nghe rõ tiếng bà thở dài trầm buồn, mỏi mệt. Suốt mấy đêm liền, bà cứ thao thức trở mình mà không sao chợp mắt nổi. Tôi biết những ngày như thế này, bà có hàng trăm thứ phải lo nghĩ. Chủ nợ mấy quán tạp hóa ngoài chợ cũng đã đánh tiếng. Bà ngày càng gầy sọp đi. Khóe mắt hốc hác. Da dẻ xuống sắc vàng vọt. Tài sản có giá trị lớn nhất trong nhà lúc ấy là con nghé non chưa tròn hai năm tuổi, bà đành ngậm ngùi bán đi. Còn nhớ hôm đó, khi người đàn ông đi đôi ủng da màu đen lẳng lặng dắt con nghé ra khỏi cổng, hai anh em tôi đã chạy theo òa khóc nức nở. Số tiền bán con nghé cũng chỉ vừa đủ trang trải nợ nần và mua thêm nửa yến gạo.

Trong một bữa tối, nhường phần cơm trắng cho đàn cháu nhỏ, bà ăn củ chuối luộc chấm nước mắm. Bà cười bảo: “Lúc trưa bà ăn cơm giờ vẫn còn no lắm. Với lại bà thích ăn củ chuối hơn.” Tự dưng lồng ngực nhói lên nghèn nghẹn, tôi đáp lại: “Cháu cũng thích ăn củ chuối hơn ăn cơm. Bà xem kìa, cơm trắng vẫn còn nhiều quá.” Bà ôm hai đứa cháu nhỏ côi cút vào lòng, đôi mắt lại rơm rớm nước...

Bước qua những mùa giáp hạt như thế, anh em tôi cứ dần lớn lên. Bây giờ khi cuộc sống đủ đầy hơn rất nhiều so với trước đây, thì bà tôi đã đi xa mãi mãi. Không còn nữa những bữa cơm độn toàn khoai sắn. Không còn nữa cái cảnh mang rá sang nhà hàng xóm đi vay từng bát gạo ăn tạm qua ngày. Nhưng cũng chính lúc này đây, dẫu sống giữa cái thời “ăn ngon, mặc đẹp”, tôi vẫn luôn cảm thấy đói khát, đói khát tình người!

Ngày nay, nhà này ngăn cách với nhà kia bằng tường cao, rào thép. Người ta sống với nhau hời hợt theo cái kiểu “đèn nhà ai nhà nấy rạng” nên tình xóm, nghĩa làng cũng vì thế mà chẳng còn thân thiết và gắn bó như xưa. Đôi lúc, thầm ước được quay về những mùa giáp hạt ấu thơ để được sống trong sự chở che, bao bọc của bà, để được thấy rằng, ngày ấy, dù thiếu miếng cơm, manh áo, nhưng không bao giờ thiếu hụt yêu thương!

Phan Đức Lộc