.

Ghi dưới chân núi Giăng Màn - Bài 2: Chuyện về những giáo viên cắm bản

Thứ Ba, 25/10/2016, 16:04 [GMT+7]

(QBĐT) - Dưới chân núi Giăng Màn mờ sương đang có hàng chục thầy cô giáo  cắm bản,  âm thầm “gieo” từng con chữ cho con em đồng bào. Cuộc sống còn muôn vàn khó khăn, gian khổ và nguy hiểm nhưng các thầy cô vẫn quyết tâm vượt qua. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của họ là nhìn thấy các em nhỏ đi học đầy đủ, biết đọc, biết viết con chữ Bác Hồ để lớn lên làm người có ích cho đất nước.

Sau nhiều lần hẹn, cuối cùng tôi đã có cuộc hành trình với những giáo viên cắm bản lên đại ngàn Trường Sơn. Một ngày đầu thu, khoảng 4 giờ 30 phút, tôi gặp thầy Đoàn Anh Tuấn, giáo viên Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa tại ngã tư Quy Đạt. Trời vùng cao mưa như trút nước, những cơn gió lạnh đầu mùa bắt đầu tràn về. Sợ tôi không đi theo kịp đoàn nên thầy Tuấn khuyên tôi ở nhà chờ đến dịp nắng ráo hãy đi. “Các thầy cô đi được, tôi cũng đi được”, tôi quả quyết.

Thầy cô giáo Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa phải khiêng xe đến lớp.
Thầy cô giáo Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa phải khiêng xe đến lớp.

Trên đường đi, tôi bắt gặp hàng chục thầy cô giáo khác cũng đang chờ dọc đường để đi theo đoàn. Thầy Tuấn nói. “Do đường đi lại khó khăn hiểm trở, sáng nay lại mưa to nên anh chị em phải đi với nhau để lỡ có bất trắc thì còn giúp đỡ nhau được”.

Sau hai giờ đồng hồ, chúng tôi chạm đất Trọng Hóa. Từ đây, muốn vào đến Trường tiểu học và THCS Ra Mai phải rẽ vào một con đường bê tông nhỏ, dốc cao thẳng đứng. Phía bên trái là đỉnh núi Giăng Màn cao chót vót, bên phải là con nước khe Dọi chảy đục ngầu.

Thỉnh thoảng, chúng tôi lại bắt gặp những thác nước từ trên cao đổ xuống ào ào như muốn cuốn trôi đi tất cả. Vượt qua ba con suối nhỏ nhưng nước chảy rất xiết, xe của hai cô giáo bị chết máy giữa dòng phải dắt bộ. Một cô giáo bị té ngã giữa dòng, suýt bị nước cuốn trôi, may mà có một thầy giáo lao ra giữ lại.

Qua khe Ka Định đến khe Cáp Pi rồi khe Hà Nôông. Đây là một trong những “cửa ải” khó khăn, là nỗi sợ hãi của giáo viên, nhất là những giáo viên nữ. Bởi muốn vượt qua con suối này trong mùa mưa lũ là phải khiêng xe. Hàng chục chiếc xe máy đang xếp hàng chờ được khiêng.

Trước hết, những giáo viên nữ được các thầy dắt qua trước. Một số thầy hì hục chặt cây làm đòn khiêng. Trận mưa rừng đêm trước vẫn xối xả, nước khe đổ ào ào và càng chảy xiết hơn. Lột hết quần áo dài, cứ bốn thầy một xe vật lộn với dòng nước đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Chiếc xe đầu tiên, rồi xe thứ 2, thứ 3... được các thầy nhọc nhằn đưa qua. Đang khiêng chiếc xe cuối cùng thì có hai thầy bị trượt chân té ngã suýt bị nước cuốn.

Tôi và những người đứng trên bờ sợ đến thót tim. Mấy thầy giáo trẻ dũng cảm lao ra giữa dòng, người trên bờ giữ chắc con sào bằng gỗ, một tay bám chặt lấy gốc cây mới kéo người dưới nước lên được. Sau gần 30 phút vật lộn, cuối cùng hàng chục chiếc xe cũng được đưa qua suối an toàn.

"...Trên 30 năm cắm bản gieo chữ nơi đại ngàn Trường Sơn, thầy Đinh Văn Hướng được nhiều đồng nghiệp gọi vui là Hồ Hướng, vì thầy đã gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số quá lâu.

Trong suốt thời gian ấy, dấu chân thầy đã in đậm trên tất cả các bản làng. Việc nói tiếng dân tộc của thầy đã trở nên quen thuộc như tiếng mẹ đẻ..."

Thầy Trần Đức Thành, giáo viên Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa tâm sự: “Con đường đến lớp của anh em giáo viên cắm bản là thế đó. Nhưng đây chỉ là “cửa ải” đầu tiên thôi. Để vào tới điểm trường cuối cùng phải qua 5 con suối và vài lần khiêng xe nữa”. Qua được con suối dữ, 5 giáo viên của điểm trường bản K Oóc rẽ phải đi xuống một con dốc trơn trợt, đá tai mèo lởm chởm. Cuộc hành trình của chúng tôi tiếp tục.

Qua điểm trường Ra Mai, rồi lần lượt đến các điểm trường bản Cha Cáp, Dộ, Tà Vờng, Sy, suốt cuộc hành trình, chúng tôi phải vật lộn toát mồ hôi trên con đường sạt lở và cùng các thầy cô giáo khiêng xe thêm ba lần nữa mới đến được đích...

Để dạy học tại các bản làng thuộc Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa, ngoài công việc chuyên môn, các thầy cô giáo nơi đây còn phải "bốn cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số) với bà con và học sinh. Thầy giáo Đinh Thanh Liêm, quê ở thị trấn Quy Đạt, huyện Minh Hóa còn nhớ rõ kỷ niệm đi “bắt” học sinh đến lớp. Đó là những ngày đầu năm học 2009- 2010, điểm trường bản Sy vừa được mở. Trước đó, tất cả con em nơi đây đều không biết chữ.

Thời gian đầu mới mở lớp, các em có vẻ hào hứng, nhưng chỉ một thời gian ngắn là học trò bỏ học gần hết. Lớp học được 15 em thì đã có 10 em bỏ học theo cha mẹ đi kiếm cái ăn. Có nhiều em vào tận bản Sòn cách lớp học hơn hai giờ đồng hồ đi bộ. Bằng mọi giá không để học sinh bỏ học, thầy cùng một đồng nghiệp quyết định băng rừng, vượt suối vào bản Sòn “bắt” học sinh về. Sau hai ngày lặn lội “bốn cùng” với học sinh và dân bản, thầy đã đưa toàn bộ học trò về lại trường.

Thầy Liêm kể lại: “Khi tôi vào vận động, bị bố mẹ các em phản đối nhiều lắm. Họ nói là “cái ăn chưa no làm sao lo việc học”. Vậy là tôi phải vận dụng hết vốn liếng tiếng dân tộc của mình để giải thích cho họ nhận ra ý nghĩa của việc cho con cái đến trường. Chừ anh thấy đấy, học sinh ở đây đã quen việc đến lớp học chữ rồi, đó cũng là niềm hạnh phúc lớn nhất của anh, chị em giáo viên cắm bản chúng tôi”.

Thầy Cao Văn Bảo, giáo viên dạy ở bản K Oóc thì không phải đi “bắt” học sinh như thầy Liêm. Nhưng để cắm bản dạy chữ cho con em nơi đây, thầy phải thường xuyên ăn ở với học sinh và dân bản. Chỗ ở của các thầy quá chật chội trong một cái chòi nhỏ được ngăn đôi. Nhưng với lòng yêu nghề, mến trò, thầy đã bám trụ lại nơi đây hàng chục năm trời.

Niềm vui lớn nhất của người dân bản K Oóc là được xem phim.

 

>> Ghi dưới chân núi Giăng Màn - Bài 1: K Oóc gần mà xa

Lúc rảnh rỗi thì đến nhà các em để trò chuyện với phụ huynh, vận động bà con xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, ăn uống vệ sinh, quan tâm đến việc học hành của con cái. Khi nào bà con có việc thầy cũng đến giúp đỡ. Nhờ vậy mà mùa mưa lũ hàng năm, nước khe suối cô lập dài ngày, lương thực cạn kiệt nhưng các thầy cô vẫn được dân bản cưu mang giúp đỡ.

Thầy Bảo nói, trước đây, đời sống của bà con rất khó khăn. Các hủ tục lạc hậu như sinh con ngoài rừng, thờ cúng, ma chay khi đau ốm vẫn tồn tại trong đời sống dân bản. Thầy và đồng nghiệp phải mất một thời gian dài mới vận động bà con bỏ các hủ tục đó.

Trưởng bản K Oóc- Hồ Liên thật thà: “Dân bản miềng quý thầy cô giáo lắm! Họ không chỉ dạy cho con em miềng con chữ Bác Hồ mà con giúp bà con làm nhà cửa, cho thuốc chữa bệnh, bày cho đồng bào cách sống định canh, định cư, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu...”.

Trên 30 năm cắm bản gieo chữ nơi đại ngàn Trường Sơn, thầy Đinh Văn Hướng được nhiều đồng nghiệp gọi vui là Hồ Hướng, vì thầy đã gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số quá lâu. Trong suốt thời gian ấy, dấu chân thầy đã in đậm trên tất cả các bản làng. Việc nói tiếng dân tộc của thầy đã trở nên quen thuộc như tiếng mẹ đẻ. Mọi phong tục tập quán nơi đây thầy đều biết hết. Có khi rảnh rỗi, thầy gọi học sinh đi đánh cá về nấu cơm ăn chung.

Bản Ra Mai dưới chân núi Giăng Màn.
Bản Ra Mai dưới chân núi Giăng Màn.

Vì thế mà học sinh và dân bản nơi đây rất yêu quý thầy. “Sống lâu với đồng bào và học sinh dân tộc thiểu số vùng biên giới lâu cũng quen rồi. Nếu cấp trên không phân công về xuôi thì tôi nguyện ở lại cắm bản đến khi về hưu luôn”, thầy Hướng tâm sự. Trong số nhiều học trò của thầy Hướng ở biên cương đã có những người thành đạt, hiện đang làm cán bộ, giáo viên ở các bản làng trong huyện.

Thầy Nguyễn Đại Khờn, Hiệu trưởng Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa bộc bạch: “Cuộc sống của giáo viên cắm bản vất vả thế đó. Nhưng ai cũng yêu nghề, yêu trò nên gắng động viên nhau để vượt qua khó khăn”.

Hiện Trường tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa có 37 lớp thuộc 7 điểm trường và 60 giáo viên, cán bộ quản lý với 505 học sinh. Hàng năm, tỷ lệ học sinh khá, giỏi của trường đều tăng. Năm học vừa qua, nhà trường có thầy Trần Đức Thành đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và một giáo viên được Bộ Giáo dục – Đào tạo tặng bằng khen vì có thành tích phát triển phong trào thể dục thể thao trong trường học giai đoạn 2010-2015.

Công tác tuyển sinh đầu cấp của nhà trường đạt 100%. Phong trào thể dục thể thao, hoạt động Đoàn, Đội cũng đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Kết quả đó đã góp phần giúp xã Trọng Hóa hoàn thành công tác phổ cập giáo dục THCS...

Để có được những thành công trên là sự nỗ lực hết mình của tập thể, cán bộ, giáo viên nơi đây. Họ đã luôn gắn bó keo sơn với đồng bào và học sinh để cắm bản dưới chân núi Giăng Màn làm nhiệm vụ cao quý.

Xuân Vương

Bài 3: Điểm tựa của dân