.

Ai có thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp đất đai?

Thứ Tư, 12/10/2016, 10:49 [GMT+7]

(QBĐT) - Thông tin từ TAND tỉnh cho biết, trong thời gian vừa qua, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của một số Thẩm phán thuộc TAND các cấp trong tỉnh không đúng Luật Đất đai năm 2013 và Luật Tố tụng Hành chính 2015, dẫn đến việc Toà án cấp cao xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm đã huỷ một số bản án sơ thẩm, phúc thẩm. Việc đó đã làm ảnh hưởng đến quyền khiếu nại, khởi kiện của đương sự về lĩnh vực tranh chấp đất đai.

Cụ thể, có những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, nhưng UBND các cấp vẫn thụ lý giải quyết khiếu nại về đất đai. Và khi có đơn khởi kiện các quyết định hành chính đó, Thẩm phán và Hội đồng xét xử không tuyên huỷ quyết định hành chính trái thẩm quyền mà lại bác đơn khởi kiện của đương sự. Từ thực trạng này, để xác định  thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của TAND và UBND theo đúng quy định, ngày 5-10-2016, TAND tỉnh đã ban hành công văn số 574 /TAND về việc hướng dẫn thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.

Theo đó, tại khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai nêu rõ: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau: Tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết” (các loại giấy tờ  tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 được hướng dẫn tại Điều 18, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15-5-2014).

Từ quy định viện dẫn nói trên, nếu Chủ tịch UBND các cấp mà giải quyết các tranh chấp trên là sai thẩm quyền. Khi đương sự không đồng ý và khởi kiện vụ án hành chính đến TAND thì bên cạnh việc xem xét các điều kiện khác, cần xem xét về thẩm quyền ban hành quyết định bị khởi kiện để huỷ quyết định hành chính sai thẩm quyền đó. Trong thực tế, có một số vụ án Toà án vẫn chấp nhận quyết định giải quyết tranh chấp của Chủ tịch UBND các cấp mặc dù sai thẩm quyền. Việc này đã dẫn đến việc bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm huỷ hoặc sửa án.

Tại khoản 2, Điều 203 Luật Đất đai quy định: “Tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a. Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b. Khởi kiện tại Toà án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
Như vậy, theo quy định trên thì đối với những trường hợp đương sự “không có giấy tờ” thì chỉ được lựa chọn một trong hai cơ quan giải quyết tranh chấp đó là: TAND có thẩm quyền hoặc là UBND có thẩm quyền. Khi đương sự đã lựa chọn nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND thì Toà án không thụ lý giải quyết mà trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện.

Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền thì Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết (đối với trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau). Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì đương sự có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

Khi đương sự đã lựa chọn việc khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết và có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án thì Toà án xem xét để tiến hành thụ lý giải quyết theo thủ tục chung mà không được trả lại đơn (điểm b khoản 1 Điều 33 Luật tố tụng Hành chính 2015).

Bùi Thành