Những điều anh để lại...
(QBĐT) - Hơn 40 năm trôi qua kể từ ngày con trai hy sinh, nỗi đau dường như dần lắng lại trong đôi mắt đã mờ đục nhưng người mẹ ấy vẫn giữ nguyên vẹn những kỷ vật thiêng liêng anh để lại. Một sổ học bạ, một giấy báo trúng tuyển đại học, một cuốn nhật ký đã đượm màu thời gian vẫn được mẹ giữ gìn cẩn thận. Nhưng những gì thiêng liêng anh để lại không chỉ là những kỷ vật đã ngả màu ấy...
Liệt sỹ Nguyễn Đức Kỳ |
Gặp mẹ Hoàng Thị Chính (Đồng Sơn, Đồng Hới) lần đầu, nếu không nghe mẹ kể chuyện quá khứ không ai nghĩ mẹ đã từng chịu quá nhiều nỗi đau mất mát. Mẹ mạnh mẽ đến lạ! Dường như tất cả những vết thương trong trọn 40 năm qua không thể đánh gục được người mẹ ấy. Mẹ kể về anh với đôi mắt rớm lệ nhưng tuyệt nhiên không rơi một giọt nước mắt nào. Từng ký ức, từng hình ảnh, từng nỗi nhớ như hóa thành lệ chảy vào lòng. Nước mắt đã nén lại vào sâu thẳm tâm can. Con trai mẹ - liệt sỹ Nguyễn Đức Kỳ - đã hy sinh ở chiến trường Thượng Đức (Quảng Nam) vào tháng 10-1974. Anh là con trai của ông Nguyễn Đức Đẳng, nguyên là Bí thư Thị ủy Đồng Hới và là cháu ruột của nhà thơ Xuân Hoàng.
Trong nếp nhà đơn sơ nơi con đường nhỏ ở phường Đồng Sơn, những kỷ vật của người quá cố vẫn luôn được người thân gìn giữ cẩn thận. Lần giở những trang giấy đã úa vàng ấy, một câu chuyện về quá khứ, về hiện tại và cả những ước vọng về tương lai được mở ra đầy cảm động. Câu chuyện ấy mang tên của một người thanh niên đã tình nguyện hy sinh cả tuổi xuân, cả những ước mơ tuổi trẻ để lên đường nhập ngũ.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, ngay từ nhỏ, Nguyễn Đức Kỳ nổi tiếng là cậu học sinh thông minh, học giỏi. Năm 1971, anh thi đỗ vào Trường đại học Cơ điện Hà Nội. Em gái anh – chị Nguyễn Thị Anh Đào xúc động nhớ lại: “Kể từ khi nhận giấy báo trúng tuyển, nhiều đêm liền anh tôi không sao ngủ được. Anh trăn trở giữa quyết định tiếp tục theo học hay nhập ngũ”. Người ta có cả đời để học nhưng chiến tranh thì không đợi chờ ai. Nghĩ thế, nên như bao nam nữ thanh niên thời điểm ấy, Nguyễn Đức Kỳ đã quyết định xếp bút nghiên, lên đường ra trận theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. “Anh bảo, đi bộ đội về rồi học tiếp cũng chưa muộn”, chị Đào kể tiếp. Nhưng ước mơ ấy mãi mãi còn dang dở...
Năm 1972, Nguyễn Đức Kỳ tham gia ở chiến trường Quảng Trị. Trong một trận đánh, anh bị thương rất nặng nên được chuyển ra Bắc điều trị. Với nhiều vết thương rải đều khắp cơ thể, đơn vị quyết định để anh ở lại hậu cứ nhưng Nguyễn Đức Kỳ vẫn nằng nặc xin được trở lại đơn vị tham gia chiến đấu. Năm 1974, anh tham gia chiến trường Thượng Đức (Quảng Nam) rồi hy sinh trong một trận đánh lớn. Nhận giấy báo tử của anh, ba anh – ông Nguyễn Đức Đẳng quyết định giấu cả gia đình, một mình chịu đựng nỗi đau. Trong ký ức của người thân, thời điểm đó, ông gầy đi trông thấy, tóc cũng bạc đi nhanh chóng. Phải đến mấy tháng sau, cả gia đình mới hay tin anh đã hy sinh. Nỗi đau vỡ òa cùng nước mắt.
Mẹ Hoàng Thị Chính nghẹn ngào: “Mấy năm trước, một người bạn cùng đơn vị của Kỳ tên là Hùng ghé thăm nhà. Hùng kể lại với chúng tôi câu chuyện trước khi Kỳ hy sinh. Đêm đó, như linh tính trước được điều gì, Kỳ đã kể rất nhiều chuyện về quê hương, gia đình và bảo với Hùng rằng nếu nó không trở về thì hãy mang cuốn nhật ký, chiếc đồng hồ đeo tay, chiếc màn tuyn màu xanh và cả ảnh về cho bố mẹ”. 40 năm trôi qua, những kỷ vật chiến tranh ấy vẫn được giữ gìn cẩn thận. Với những người ở lại, đó là ký ức thiêng liêng và rất đỗi tự hào.
“Tuổi thanh xuân thật là tươi đẹp, nhưng tuổi thanh xuân của một người cũng có thể rực lửa anh hùng, cũng có thể bình thản trôi đi một cách vô vị để rồi hối tiếc, và cũng có thể bước tiếp những bước vững vàng bước tới tuổi thanh xuân huy hoàng, tráng lệ. Điều quan trọng là ta phải biết hiến dâng tuổi thanh xuân ấy cho những mục đích cao đẹp của cuộc đời”. Câu nói ấy của nhà văn Ngụy Ngụy (Trung Quốc) đã được Nguyễn Đức Kỳ viết lại nắn nót trong những trang đầu tiên của cuốn nhật ký như một lời động viên, nhắc nhở chính mình. Giữa đạn bom và khó khăn của cuộc chiến tranh ác liệt, người thanh niên xứ Quảng ấy vẫn quyết tâm sống trọn tuổi thanh xuân của mình cho “những mục đích cao đẹp của cuộc đời”. Nhiều đêm liền, giữa chiến trường Quảng Trị - nơi sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, hôm nay còn đây nhưng ngày mai thân thể có thể đã hòa vào lòng đất mẹ - anh vẫn tự vấn chính mình: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người..." (Ostrovski).
Những kỷ vật của liệt sỹ Nguyễn Đức Kỳ luôn được gia đình giữ gìn cẩn thận. |
Trong những ngày bị thương nặng, phải nằm điều trị dài ngày tại bệnh viện, Nguyễn Đức Kỳ viết thư gửi về gia đình. Những dòng thư anh viết chan chứa nỗi nhớ và lấp đầy những ước mong được trở lại chiến trường: “Con điều trị ở đây đã 4 tháng rồi mà cảm thấy như đi an dưỡng, buồn ghê!”. Trở lại chiến trường, nhiều đêm liền không ngủ, Kỳ lại làm thơ. Ẩn sau những câu chữ còn thô ráp, còn vụng về của một thanh niên tuổi 20 là cả một trái tim ấm nóng luôn tràn đầy quyết tâm hiến dâng tuổi trẻ cho Tổ quốc: “Nắng khét đá, mưa ngàn, suối lũ/ Rét biên thùy mây cuộn mùa thu/ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”/ Giục giã lòng son quyết trả thù”. Sau những trận đánh ác liệt với quân thù, trong trái tim người chiến sỹ ấy vẫn lấp lánh những hy vọng về một ngày đất nước được thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà: “Đi lên đi có ngại ngần chi/ Đánh Mỹ Ngụy để giành chân lý sống/ Nối lại non sông sau bao ngày tan nát/ Và giữa trời xanh, ta cất tiếng hát/ Khải hoàn ca Bắc Nam đẹp như hoa”.
Đợi chờ một ngày được trở về khi “đất nước trọn niềm vui” nhưng anh đã ngã xuống khi ngày chiến thắng đã gần kề. Hơn 30 năm sau ngày anh hy sinh, phần mộ của anh vẫn là một dấu hỏi lớn, là nỗi đớn đau làm nhức nhối tâm can những người thân yêu và đồng đội. Thượng Đức – vùng quê anh hùng đã một thời chứng kiến những tháng năm hoa lửa của anh thì nay, lại in hằn bao dấu chân những người thân yêu quyết tìm anh trở về. Trong những ngày mòn mỏi mong ngóng ấy, nhà thơ Xuân Hoàng đã xúc động viết nên “Bài thơ về một chỗ nằm”, trong đó có đoạn viết: “Điều rất lạ chính là từ cái chết/ Mà sinh sôi sự sống rất hồn nhiên/ Các em cháu từ khi hay cháu mất/ Giở bản đồ tìm Thượng Đức mà soi/ Thượng Đức thành nơi buồn hóa nơi vui/ Một chấm đỏ trong tầm nhìn cả nước/ Nơi chiến trận là nơi rành rẽ nhất/ Cháu hy sinh là để hiến cho đời”... Trọn 30 năm, với những bước chân không mỏi, rong ruổi trên mảnh đất chiến trường Thượng Đức năm xưa, cuối cùng, gia đình và đồng đội cũng đã tìm được anh trở về. Anh về trong trọn vẹn niềm vui và nước mắt của mẹ, trong nỗi nhớ mong vỡ òa của các em anh.
40 năm trôi qua, những kỷ vật thiêng liêng anh để lại không chỉ là một sổ học bạ, một cuốn nhật ký và một giấy báo trúng tuyển đại học đã đượm màu thời gian, mà hơn thế nữa là cả một nỗi tự hào. Nói như chị Anh Đào – em gái liệt sỹ Nguyễn Đức Kỳ: “anh tôi mất đi nhưng đã để lại cho các thế hệ con cháu về sau cả một tài sản lớn đó là niềm tự hào. Nhìn vào anh, chúng tôi biết sống có trách nhiệm hơn với truyền thống gia đình, sống xứng đáng với sự hy sinh của anh”.
Diệu Hương