.

Lễ hội mừng cơm mới của người Bru Vân Kiều

.
14:48, Thứ Sáu, 06/01/2012 (GMT+7)

(QBĐT) - Người Bru Vân Kiều ở miền núi phía tây Quảng Bình cư trú ở vùng có khí hậu khắc nghiệt. Hạn hán, mưa lũ, thiên tai... liên miên. Mùa hè thì nắng gió lào khô cháy thổi sang, mùa đông lạnh giá, rét buốt. Vì thế mà đồng bào phải sống du canh du cư, phát đốt, cốt, trỉa để sinh tồn, dựa vào tự nhiên, rừng, sông suối. Diện mạo đời sống của người Bru Vân Kiều khá khép kín, hướng nội, có sắc thái tự cung, tự cấp. Hoạt động sản xuất chủ yếu của người Bru Vân Kiều chủ yếu là canh tác rẫy, trồng lúa là chính. Nông cụ làm rẫy cũng chỉ vài thứ như rìu, dao quắm, gậy chọc lỗ trỉa hạt, nạo cong để cào cỏ. Cách thức sản xuất còn mang tính chất nguyên thủy bằng cách phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ trỉa hạt giống, làm cỏ, thu hoạch thì tuốt lúa bằng tay rồi gùi lúa trên lưng đưa về nhà. Đất rừng phát rẫy có thể đa canh, xen canh trong năm. Họ trồng lúa tẻ, lúa nếp. Ngoài ra còn trồng thêm đậu, mè, bầu bí, rau...

Người Bru Vân Kiều định ra các ngày và tên ngày tháng qua quan sát sự chuyển dịch của mặt trăng, đồng thời họ cũng quan niệm có những ngày tốt (ngày mồng 4,7,9), những ngày xấu (30 và mồng 1). Mỗi năm lịch nông nghiệp của người Bru Vân Kiều gồm 10 tháng thời gian trồng trỉa thường bắt đầu vào tháng 5 (Rool) kéo dài đến thời gian trăng mọc (Ca xơ lây) của tháng 6. Đến tháng 10 lúa chín, người Bru Vân Kiều tổ chức thu hoạch. Ngày đầu thu hoạch, họ không cho người lạ mặt vào bản, rẫy, quy định không được phóng uế. Thời gian thu hoạch kéo dài đến tháng 11. Đến tháng 12 là lúc nghỉ ngơi. Người Bru Vân Kiều rất coi trọng các lễ cúng mùa vụ, tín ngưỡng của họ còn mang dấu vết của tô tem giáo. Họ tin vào các thần linh huyền bí (Yang), họ coi vạn vật hữu linh, thờ thần lúa. Thần lúa được coi là vị thần quan trọng nhất (Trong truyền thuyết thần lúa tượng trưng hình trái bầu) không chỉ cứu vớt loài người trong trận lũ lụt lớn mà còn mang lại ấm no hạnh phúc cho dân tộc họ. Bởi vậy người Bru Vân Kiều luôn bảo lưu các lễ hội liên quan đến thần lúa như lễ trỉa hạt, lễ mừng cơm mới. Các lễ cúng liên quan khá sâu sắc đến hoạt động sản xuất như khâu phát đốt cốt, trỉa, tuốt lúa và cất giữ lúa...

Lễ hội mừng lúa mới thường được tổ chức vào ngày trung tuần của tháng 12 âm lịch. Người Vân Kiều gọi là tư ka bôn. Lễ tư ka bôn được tổ chức 3 đến 5 năm một lần. Đây là nghi lễ được tiến hành khi vụ mùa kết thúc một chu kỳ sản xuất để bước vào một vụ mùa mới. Họ cúng tạ ơn các thần linh đã phù hộ cho họ có một vụ mùa tốt, đồng thời cầu xin thần lúa, và các vị thần sông, thần núi cho họ mùa tới tốt hơn. Đồng bào Vân Kiều có câu tục ngữ: "Ca xay oong, ta oong ngoai cha" (Nghĩa là tháng chạp là tháng ăn chơi). Tháng 12 thường là tháng nghỉ ngơi sau một kỳ thu hoạch, là lúc đồng bào thăm viếng, sinh hoạt cộng đồng với các lễ hội và sau đó dồn công sức cho vụ mùa sau.

Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào Bru Vân Kiều được tổ chức trên quy mô cộng đồng, do đồng bào tự đóng góp lại. Lễ hội thường được tổ chức theo nhóm, hay từng dòng họ. Mỗi dòng họ đóng góp theo suất của từng hộ gia đình... Các suất được quy định như 1 con lợn, bảy con gà, 1 ché rượu và chung tiền để mua 1 con trâu tổ chức đâm trâu. Con trâu là con vật hiến sinh mang ý nghĩa thiêng liêng, là nguồn thực phẩm dồi dào được đồng bào ưa chuộng, là món ăn chính trong ngày hội.

Nguồn internet
Nguồn internet

Trong lễ mừng lúa mới, đồng bào tổ chức đâm trâu hay còn gọi "ăn trâu". Đây là một nghi lễ cổ xưa nhất, xuất phát từ tín ngưỡng nguyên thủy vẫn còn tồn tại trong cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số Bru Vân Kiều. "Ăn trâu" để tạ ơn thần linh, cầu cho thóc lúa đầy kho, dân làng khỏe mạnh, vạn vật sinh sôi, mưa thuận gió hòa. Đây cũng là dịp để đồng bào vui chơi, nghỉ ngơi, chuẩn bị bước vào mùa rẫy mới.

Trước khi vào lễ, đồng bào chuẩn bị dựng cột nêu trang trí hình cây lúa, có buộc túm lúa sai hạt vào cột, trên cột có trang trí hình học đơn giản, hình chim muông, mặt trăng, mặt trời, với các đường nét đơn giản nhưng thanh thoát, thường thì đồng bào chỉ dùng 2 màu đen đỏ để trang trí. Cột nêu để buộc trâu và tổ chức đâm trâu. Dân làng đứng xung quanh thành vòng tròn đi lại đánh chiêng, fèng la và hát vang dội núi rừng.

Mục đích là để tế thần lúa (a bôn) và cám ơn các vị thần linh đã cho dân làng một mùa màng bội thu. Đồng thời lễ hội còn là dịp để cầu phúc, cầu sức khỏe cho dân làng được an bình, hạnh phúc. Lễ được kéo dài 2 ngày 1 đêm. Lễ hội mừng lúa mới được coi là cái Tết của người Bru Vân Kiều. Đồng bào còn tổ chức nấu xôi bằng lúa mới, thịt gà lợn, thịt trâu sau khi đâm trâu để vui lễ.

Trong lễ các cụ già uống rượu và hát các làn điệu dân ca o oát, sa nớt, hát chà chấp. Một số đánh chiêng, thổi khèn, thổi sáo, kèn pi, sáo khsui, kèn amam, ta riêm, đàn achung, pư kua... Lời hát là các làn điệu dân ca truyền thống cầu chúc cho cuộc sống an bình, ấm yên. Trong lễ hội các món ăn truyền thống được đồng bào chế biến như canh cải, cháo ra vẻ, mắm a tăn làm từ thịt con vượn, ngoài ra còn có chuối, mía do đồng bào trồng và làm bánh  bằng bột nếp và vừng đen giã nhuyễn gói lại như bánh tét. Khách đến dự cũng được mời như dân bản. Trong lễ hội mừng lúa mới đồng bào vui như Tết và tràn trề hạnh phúc.

Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào Bru Vân Kiều toát lên đầy đủ những sắc thái của nền văn hóa tộc người. Người tham dự được chứng kiến những lễ nghi kỳ thú, được đánh chiêng, múa hát, uống rượu cần, ăn bữa cơm "cộng cảm", cùng vui chơi một cách hồn nhiên và say sưa trong hơi ấm cộng đồng. Vốn văn hóa truyền thống của dân tộc như nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật diễn xướng dân gian, những thuần phong mỹ tục được trân trọng, bộc lộ và thăng hoa. Trong lễ hội có nghi thức đâm trâu nên có thể gọi là lễ hội đâm trâu nhưng thực tế đây là lễ hội của đồng bào Bru Vân Kiều mừng một vụ mùa bội thu, cầu mong thần lúa, thần linh cho một vụ mùa đến tốt hơn và cầu chúc sức khỏe cho mọi người. Thiết nghĩ đây là loại hình văn hóa phi vật thể của dân tộc Bru Vân Kiều ở miền núi phía tây Quảng Bình cần được bảo tồn góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

                                                                         Diệu Hồng

                                                                    (Bảo tàng Quảng Bình)

 

 

,